Học Giáo Lý Tân Tòng Ở Đâu Hà Nội Năm 2024

Học Giáo Lý Tân Tòng Ở Đâu Hà Nội Năm 2024

Lớp Giáo Lý dự tòng khóa 14 (từ 06/02/2023 đến 19/06/2023) của giáo xứ Tân Định sẽ khai giảng vào tối thứ hai 06/02/2023 lúc 19:00. Lớp Giáo Lý Hôn Nhân khóa 14 (từ 06/02/2023 đến 19/06/2023) sẽ khai giảng vào tối thứ sáu 10/02/2023 lúc 19:00.

Lớp Giáo Lý dự tòng khóa 14 (từ 06/02/2023 đến 19/06/2023) của giáo xứ Tân Định sẽ khai giảng vào tối thứ hai 06/02/2023 lúc 19:00. Lớp Giáo Lý Hôn Nhân khóa 14 (từ 06/02/2023 đến 19/06/2023) sẽ khai giảng vào tối thứ sáu 10/02/2023 lúc 19:00.

LỚP GIÁO LÝ DỰ TÒNG KHOÁ II NĂM 2024

CHƯƠNG TRÌNH GIÁO LÝ TÂN TÒNG TỔNG QUÁT   KHÓA HỌC 2011-2012 GIÁO LÝ DỰ TÒNG Dạy Giáo Lý là tuyên xưng và truyền đạt chân lý cốt yếu này: Chúa Giêsu Kitô là nguồn mạch, là sức mạnh, là hạnh phúc an vui, là đích điểm và là nguyên nhân của muôn loài muôn vật hiện hữu trong vũ trụ này. Và từ tâm điểm này, mọi sự được bắt đầu và kết thúc ...

CHƯƠNG TRÌNH GIÁO LÝ TÂN TÒNG TỔNG QUÁT   KHÓA HỌC 2011-2012 GIÁO LÝ DỰ TÒNG Dạy Giáo Lý là tuyên xưng và truyền đạt chân lý cốt yếu này: Chúa Giêsu Kitô là nguồn mạch, là sức mạnh, là hạnh phúc an vui, là đích điểm và là nguyên nhân của muôn loài muôn vật hiện hữu trong vũ trụ này. Và từ tâm điểm này, mọi sự được bắt đầu và kết thúc ... Giáo lý đó là Chúa Giêsu Kitô, Ngôi Lời Nhập Thể và Con Thiên Chúa. Ngài là chính giáo lý phải được giáo huấn và qui chiếu. Ngài cũng chính là giáo lý viên duy nhất mà mọi giáo lý viên khác chỉ là phát ngôn viên của Ngài. (Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II) Mục đích chính yếu của giáo lýkhông chỉ làm cho ta gặp gỡ, nhưng còn giúp ta hiệp thông mật thiết với Chúa Giêsu Kitô: chỉ Ngài mới có thể dẫn đưa ta đến với tình yêu của Chúa Cha trong Chúa Thánh Thần, và làm cho ta được chia sẻ đời sống Thiên Chúa Ba Ngôi. (ĐTC Gioan Phaolô II) Đích điểm của giáo lý dự tòng là làm cho một người đón nhận, tin và quy phục Đức Giêsu Kitô. Giáo lý Dự Tòng là tiến trình giúp cho một người hoán cải, từ bỏ bản thân để quy phục, tín thác và yêu mến một mình Chúa Giêsu Kitô, vị Thiên Chúa đầy tình thương đã xuống thế gian để cứu độ con người. Điều quan yếu nhất phải hiểu về Giáo Lý Dự Tòng là Đức Giêsu Kitô là nguồn, quyền năng, đích điểm và là lý do hiện hữu của mục vụ giáo lý dự tòng. Và tất cả mọi sự khác đều phát xuất từ tâm điểm này. Mục đích của tién trình Giáo Lý Dự Tòng là đem học viên và ứng viên vào hiệp thông với Chúa Kitô. Mục đích này được đạt đến qua 3 hoạt động: Phụng Vụ: Phụng Vụ giúp học viên gặp gỡ được Thiên Chúa. Mục Vụ: Mục vụ giúp học viên đạt được niềm tin sâu sa. Giáo Lý: Giáo Lý giúp học viên hiểu biết và đón nhận Đức Tin toàn vẹn. SÁCH GIÁO KHOA 1. Tài Liệu Chính Thức:        a. Giáo Lý Công Giáo Do Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ soạn thảo (Anh & Việt gồm 3 quyển có trong Website suyniem.com)         b. Kinh Thánh (Bản Dịch của Nhóm Phụng Vụ các Giờ Kinh)         c. Toát Yếu Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo (Dòng Đaminh VN)         d. Căn Bản Đạo Chúa - Giáo lý Tân Tòng 2 (Lm Nguyễn Văn Thư)         e. Thiên Chúa, Nguồn Sống và Hy Vọng (Lm Nguyễn Công Vinh)         f. Giáo Lý Dự Tòng (Tòa GM Xuân Lộc)         g. Giáo lý Dự Tòng (Giáo Phận Vĩnh Long)        k. Giáo Lý Công Giáo do Hội Đồng Giám Mục Việt Nam soạn (có trong Website suyniem.com dưới đây) 2. Các Tài Liệu khác liên quan đến đề tài được giảng dạcy lấy trong sách, báo hoặc Internet. 3. Các Kinh Nguyện căn bản. NHỮNG TÍN LÝ CĂN BẢN & NHỮNG THỰC HÀNH QUAN TRỌNG TRONG ĐẠO CÔNG GIÁO 1. Một Thiên Chúa duy nhất trong Ba Ngôi: Chúa Cha, Con và Thánh Thần. 2. Chúa Giêsu là Thiên Chúa, là Con Thiên Chúa đã làm người và là Đấng Cứu Độ duy nhất. 3. Mầu Nhiệm khổ nạn và Phục Sinh của Chúa Giêsu. 4. Giáo Hội duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền. 5. Kinh Thánh và Truyền Thống. 6. Bảy Bí Tích. 7. Bí Tích Thánh Thể (Thánh Lễ + Rước Lễ thiêng liêng + Thánh Thể) 8. Bí Tích Hòa Giải. 9. Cầu Nguyện. 10. Ân Sủng 11. Tội Lỗi 12. Kinh Tin Kính 13. Kinh Lạy Cha 14. Phục Vụ 15. Mười Giới Răn & Các Luật của Giáo Hội 16. Truyền Giáo 17. Mẹ Maria (Những việc tôn vinh Mẹ & Kinh Mân Côi) 18. Các Thánh (Tên thánh quan thầy & các vị thánh đặc biệt) 19. Các Thánh Tử Đạo Việt Nam (Các thánh ttử đạo & Kính nhớ tổ tiên) 20. Người Công Giáo mẫu mực: Sống đạo giữ lòng thế giới, trong gia đình, trong giáo xứ. MỘT VÀI QUY LUẬT ĐỀ NGHỊ CHO KHÓA GIÁO LÝ DỰ TÒNG 1.     Học Viên học đủ khóa trình. a. Nếu vì lý do bất khả kháng phải nghỉ một hoặc hai tuần, học viên cần phải liên lạc với vị      điều hợp viên. b. Học viên luôn luôn đến học đúng giờ. Nếu trễ bao nhiêu trong khóa trình, thì phải học lại      bấy nhiêu. c. Nhỉ qúa 3 lần sẽ không được rửa tội. Cần phải học khóa tới. d. Trong lớp học phải tuyệt đối tắt các cell phône. 2.     Những người phối ngẫu tương lai của học viên cùng tham dự khóa học. 3.     Hàng tuần đều có cách thức ôn bài cho học viên (trắc nghiệm, bàn thảo, video clip, vấn đáp . . . 4.     Học viên phải tham dự buổi ôn bài tổng quát được tổ chức vào cuối khóa theo chương trình ấn định. Các người bảo trợ, đỡ đầu nên tham dự buổi học và phần phụng vụ Lời Chúa cùng với học viên của mình bảo trợ hay đỡ đầu.       ************************************************************************************************************** THỜI KHÓA BIỂU  Giảng trình GIÁO LÝ DỰ TÒNG 2011-2012(CĐ St. Barbara, GP Orange, CA) Tháng 8 / 201114 Khai giảng21 Dẫn Nhập: Lòng tin của nhân lọai và Mạc Khải của Thiên Chúa28 THIEN CHÚA. CHÚA CHA toàn năngTháng 9 04 CHÚA GIÊSU KITÔ: Ngôi Hai Cứu Thế: Nhập Thể , đời công khai11 CHÚA GIÊSU KITÔ: Tử Nạn, Phục Sinh, va Thăng Thiên18 CHÚA THÁNH THẦN: Ngôi Ba thánh hóa25 GIỚI LUẬT CỰU ƯỚC: Tổng quát 10 Giới răn +GIỚI RĂN 1, 2, 3Tháng 1002 GIỚI RĂN: 4, 5 , 809 GIỚI RĂN : 6 và 9, 7 và 10 ,16 GIÁO HỘI CỦA CHÚA GIÊSU: công giáo, thánh thiện, duy nhất, tông truyền23 THÁNH KINH: dẫn nhập vào Cựu Ước va Tân Ước + cách Suy niêm Lời Chúa30 THIÊN THẦN và CÁC THÁNH của Giáo Hội Công GiáoTháng 1106 Tổng quát về 7 BÍ TÍCH. Bí Tích RỬA TỘI và THÊM SỨCc13 Bí Tích THÁNH THỂ + THÁNH LỄ trong đời sống tín hữu20 ĐỐ VUI ĐỂ HỌC (ôn lại những bài học trước)27 NGHỈ THANKSGIVINGTháng 1204 Bí Tích HÒA GIẢI11 Bí Tích TRUYỀN CHỨC THÁNH và Bí Tích XỨC DẦU BỆNH NHÂN18 Bí Tích HÔN PHỐI và HÔN NHAN CÔNG GIÁO (MỪNG LỄ GIÁNG SINH)25 Nghỉ lễ CHÚA GIÁNG SINHTháng 1 / 201201 Nghỉ NĂM MỚI 201208 ĐỨC MARIA: Mẹ Chúa Giêsu, Mẹ Giáo Hội, Mẹ người tín hữu15 Kinh TIN KÍNH ( tổng quát của niềm tin Công Giáo)22 Kinh LẠY CHA + tiệc mừng Tết Nguyên Đán (1/23)29 THÁNH KINH và THÁNH TRUYỀNTháng 205 BỐN THỰC TẠI CÁNH CHUNG: Sự Chềt, Luyện Ngục, Hỏa ngục, Thiên Đàng12 Chủ đề ĐỨC ÁI TRONG THÁNH KINH19 Năm PHỤNG VỤ26 CẦU NGUYỆN TRONG ĐỜI SỐNG KITÔ HỮUTháng 304 NGƯỜI KITÔ HỮU CỦA CHÚA TRONG THẾ GIỚI HÔM NAY11 Chủ đề: THẬP GIA CHÚA KITÔ18 CHÚA KITÔ: Ánh Quang Chân Lý và nguồn Cứu Độ muôn dân25 ĐỐ VUI ĐỂ HỌC (ôn học tổng quát toàn khóa)Tháng 401 SLIDESHOW ĐÚC KẾT TÒAN KHOA HỌC 07 THỨ BẢY TÙÂN THÁNH: Tĩnh tâm chuẩn bị lãnh nhận các Bí Tích khai tâm (1O:00AM) : (Các Giảng Viên)   **************************************************************************************************************     CHÚ Ý: Ngoài ba cuốn Giáo Lý Tân Tòng trong chương trình trên, xin quí vị, đặc biệt các giáo lý viên,                   có thể tham khảo thêm Cuốn Giáo Lý Công Giáo bằng bản tiếng Việt sau đây:          Giáo Lý Công Giáo Việt Nam Dành cho Giáo Lý Viên và Người Trưởng Thành Biên soạn cho Giáo Dân Việt Nam năm 1996 Tác Quyền của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam MỤC LỤC Lời Ngỏ Và Chữ Viết Tắt Dẫn Nhập: Những nền tảng Đức Tin Công Giáo Phần I: Tuyên xưng Đức Tin Phần II: Cử Hành Các Mầu Nhiệm Kitô-giáo Phần III: Luân Lý Kitô-giáo Phần IV: Kinh Nguyện Kitô-giáo LỜI NGỎ Trước khi bước vào nội dung, chúng tôi có đôi lời giới thiệu về tập sách được ghi chú là "Bản văn Giáo lý dành cho Giáo Lý Viên và Người Trưởng Thành". Theo yêu cầu của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam trong khóa họp tháng 9 - 1993, một Tiểu Ban Giám Mục về Giáo Lý đã được thành lập với mục đích biên soạn một tài liệu giáo lý chung cho Giáo Hội Việt Nam, dựa trên nền tảng là Sách Giáo Lý Chung của Hội Thánh toàn cầu. Một năm sau đó, Tiểu Ban đã đệ trình bản lược đồ phác thảo để xin góp ý. Trên mười giáo phận đã góp ý kiến và dựa vào những ý kiến đóng góp, nay Tiểu Ban đã hoàn thành hai tài liệu: Tài liệu căn bản: thủ bản tóm tắt nội dung chính yếu của giáo lý, được viết theo thể hỏi / đáp, cho dễ hiểu, dễ nhớ và dễ thuộc. Tài liệu ứng dụng vào việc đào tạo Giáo Lý Viên và Người Tín Hữu Trưởng Thành. Như vậy cuốn sách nầy là một phần trong công việc chung của Tiểu Ban Giáo Lý, với mục đích cộng tác với các linh mục, tu sĩ trong việc đào tạo giáo lý viên; đồng thời giúp người tín hữu đào sâu đức tin của mình. Khi biên soạn cuốn sách nầy, chúng tôi theo sát lược đồ đã đề nghị, cũng là lược đồ Sách Giáo Lý Chung của Hội Thánh, vì nghĩ rằng như thế sẽ có nhiều thuận lợi cho người đọc: Người đọc có được cái nhìn chung và vững chắc về giáo lý Công Giáo, như Hội Thánh hôm nay mong muốn. Nếu cần, người đọc có thể tham khảo Sách Giáo Lý Chung cách dễ dàng để đào sâu vấn đề. Các giáo lý viên có thể dùng cuốn sách nầy làm tài liệu, giúp soạn giáo án khi dạy giáo lý (theo thủ bản chung). Ở mỗi bài, chúng tôi cũng theo cách khai triển vấn đề trong Sách Giáo Lý Chung, nhưng tóm tắt lại và có thể sắp xếp lại cho sáng sủa và dễ hiểu hơn. Đồng thời ở phần cuối mỗi bài, chúng tôi đưa ra một vài gợi ý có tính mục vụ, nhằm mục đích đưa giáo lý vào đời sống cụ thể của người tín hữu. Ngoài ra, để trình bày giáo lý cho gần gũi với người tín hữu Việt Nam, trong một số bài, chúng tôi cũng thử khai triển vấn đề bằng cách liên hệ với những nét đặc trưng trong văn hóa dân tộc; cũng như có thêm một bài "Lược sử Hội Thánh Công Giáo tại Việt Nam". Mặc dù đã cố gắng, chúng tôi ý thức rất rõ về những giới hạn của mình. Vì thế, kính mong Quý Độc Giả vui lòng chỉ giáo thêm và góp ý sửa chữa bản văn, để công việc loan báo Tin Mừng đạt được kết quả tốt đẹp như Hội Thánh mong muốn. Nhóm Biên Soạn. BẢNG CHỮ VIẾT TẮT. I. Kinh Thánh: Chúng tôi theo bản dịch của Nhóm Phiên Dịch CGKPV (Xem Tân Ước trang 9-10). II. Công Đồng Vaticanô II: DT - Sắc lệnh về canh tân thích nghi đời sống Dòng Tu: Perfectae Caritatis. • ĐP - Sắc lệnh về các Giáo hội Đông Phương: Orientalium Ecclesiarum. • ĐT - Sắc lệnh về Đào Tạo Linh mục: Optatam Totius. • GD - Tuyên ngôn về Giáo Dục Kitô Giáo: Gravissimum Educational. • GH - Hiến chế Tín Lý về Giáo Hội: Lumen Gentium. • GM - Sắc lệnh về nhiệm vụ nhiệm vụ mục vụ của các Giám Mục trong Giáo hội: Christus Dominus.• HN - Sắc lệnh về hiệp nhất: Unitatis Redintegratio. • LM - Sắc lệnh về chức vụ và đời sống các Linh Mục: Presbyterorum Ordinis. • MK - Hiến chế tín lý về Mặc Khải của Thiên Chúa: Dei Verbum. • MV - Hiến chế Mục Vụ về Giáo Hội trong thế giới ngày nay: Gaudium et Spes. • NK - Tuyên ngôn về liên lạc của Giáo hội với các tôn giáo Ngoài Kitô giáo: Nostra Aetate. • PV - Hiến chế về Phụng Vụ Thánh: Sacrosanctum Concilium. • TD - Tuyên ngôn về Tự Do tôn giáo: Dignitatis Humanae. • TĐ - Sắc lệnh về Tông Đồ giáo dân: Apostolicam Actuositatem. • TG - Sắc lệnh về hoạt động Truyền Giáo của Giáo hội: Ad Gentes. • TT - Sắc lệnh về các phương tiện Truyền Thông xã hội: Inter Mirifica. III. Các tài liệu khác: DS - Denzinger Schometzer, Enchiridion Symbolorum - Tuyển tập các tín biểu. • ĐCC - Thông điệp Đấng Cứu Chuộc con người của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II GĐ - Tông huấn Gia Đình của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô: Familiaris Consortio. GL - Giáo Luật. •KHGD - Tông huấn Kitô Hữu Giáo Dân của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II: Chistifideles Larci. • LBTM - Tông huấn Loan Báo Tin Mừng của Đức Thánh Cha Phaolô VI: Evangelii Nuntiandi. DẪN NHẬP: NHỮNG NỀN TẢNG ĐỨC TIN CÔNG GIÁO   BÀI 1 CON NGƯỜI CÓ KHẢ NĂNG ĐÓN NHẬN THIÊN CHÚA (x. SGLC từ 0027 đến 0043) "Những gì người ta có thể biết về Thiên Chúa, thì thật là hiển nhiên trước mắt họ; vì chính Thiên Chúa đã cho họ thấy rõ. Quả vậy, những gì người ta không thể nhìn thấy được nơi Thiên Chúa, tức là quyền năng vĩnh cửu và thần tính của Người, thì từ khi Thiên Chúa tạo thành vũ trụ, trí khôn con người có thể nhìn thấy được, qua những công trình của Người". (Rm 1, 19-20). "Trời xanh tường thuật vinh quang Thiên Chúa, Không trung loan báo việc tay Người làm". (Tv 18A, ). I.          Con người khát khao hạnh phúc và sự sống. "Thưa Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sống đời đời?" (Mc 10, 17). Câu hỏi của người thanh niên giàu có ngày xưa về ý nghĩa và mục đích đời sống vẫn là câu hỏi của con người hôm nay, như Hội Thánh nhận xét: "Trước sự tiến hóa hiện nay của thế giới, càng ngày càng có nhiều người hoặc đặt vấn đề, hoặc nhận thức cách sâu sắc mới mẽ về những vấn đề hết sức căn bản như: Con người là gì? Đâu là ý nghĩa của đau khổ, sự dữ và cái chết? Sao chúng còn tiếp tục tồn tại mặc dù đã có bao nhiêu tiến bộ? Bao nhiêu chiến thắng đạt được với giá đắt như thế có ích gì? Cái gì sẽ tiếp theo sau cuộc sống trần gian nầy?" (MV 10). Người Kitô hữu xác tín rằng chỉ nơi Thiên Chúa, con người mới gặp được chân lý trọn vẹn, đồng thời đạt đến hạnh phúc đích thực mà nhân loại không ngừng tìm kiếm. II.        Hạnh phúc ấy chỉ có nơi Thiên Chúa. Sở dĩ như vậy, là vì con người đến từ Thiên Chúa và sẽ về với Ngài. Đến từ Thiên Chúa nên con người mang nỗi khát khao Chúa tận đáy sâu tâm hồn và chỉ nơi Ngài mới có hạnh phúc, bình an sâu thẳm, như thánh Âu-Tinh đã kêu lên: "Lạy Chúa, Chúa đã dựng nên con và lòng con khắc khoải cho tới khi tâm hồn con được an nghỉ trong Chúa". Người ta có thể nhận ra chân lý ấy khi nhìn vào hiện tượng tôn giáo trong lịch sử nhân loại. Bên cạnh những tôn giáo lớn như Phật Giáo, Ấn Giáo, Hồi Giáo, Kitô Giáo, còn có những hình thức thờ tự, cúng bái, khẩn cầu... đã xuất hiện từ rất lâu và ở khắp mọi nơi. Tất cả đều là những hình thức biểu lộ tâm tình tôn giáo. Hiện tượng nầy mang tính phổ quát đến nỗi có thể nói tâm tình tôn giáo đã ăn sâu vào bản tính và cuộc sống con người. Quả thật "Thiên Chúa không ở xa mỗi người chúng ta. Vì chưng trong Ngài, ta sống, ta chuyển động, ta hiện hữu" (Cv 17, 28). III.       Nhưng làm sao nhận biết được Thiên Chúa. Như thế, giữa con người và Thiên Chúa có mối quan hệ thân thiết, sâu xa. Mối quan hệ nầy, không chỉ là một linh cảm chủ quan, nhưng còn dựa trên nền tảng vững chắc của lý trí. Chiêm ngắm thế giới bao la xinh đẹp và trật tự hài hòa nhưng cũng chóng qua mau đổi, con người khám phá thế giới nầy vừa kỳ diệu vừa mong manh, và qua đó, có thể nhận biết Thiên Chúa như nguyên thủy và cùng đích của vũ trụ (x. Rm 1, 19-20). "Hãy đưa mắt lên cao mà nhìn: Ai đã sáng tạo những vật đó? Đấng tung ra toàn bộ đạo binh các tinh tú. Người gọi đích danh từng ngôi một, Khiến không một ngôi nào vắng mặt" (Is 40,26). Đồng thời, nhìn sâu vào lòng mình với tiếng lương tâm và lý trí tự nhiên, con người khám phá nơi chính mình "mầm sống vĩnh cửu không thể giản lược vào nguyên vật chất" (MV 18), nhưng còn là hồn thiêng bất tử nên chỉ có thể xuất phát từ Thiên Chúa tạo thành. Chính vì thế, vũ trụ chung quanh và chiều sâu tâm hồn đã trở thành những con đường đưa dẫn con người tìm về Đấng là nguyên lý tiên khởi và cứu cánh tối hậu cho con người và mọi sự. IV.       Trách nhiệm của người Kitô hữu. Giữa con người và Thiên Chúa có mối quan hệ thân thiết, sâu xa. Tuy nhiên, mối quan hệ nầy có thể bị lãng quên hay bị chối từ. Thái độ ấy có thể phát xuất từ nhiều nguyên nhân. Có những nguyên nhân khách quan như tình trạng sự dữ trên thế giới, khiến nhiều người phủ nhận dung mạo Thiên Chúa tình thương. Hoặc ảnh hưởng không thuận lợi do những trào lưu tư tưởng nghịch tôn giáo và cả gương xấu của đời tín hữu (x. MV 19). Bên cạnh đó, còn có những nguyên nhân chủ quan như quá bận tâm về của cải, hưởng thụ vật chất, và thỏa mãn lạc thú, khiến nhiều người thờ ơ lãnh đạm và trốn tránh tiếng gọi của Thiên Chúa. Trước tình trạng ấy, người tín hữu phải can đảm lên đường tìm kiếm Chúa với tất cả con người và cuộc sống của mình. Đồng thời có trách nhiệm hướng dẫn người khác trong hành trình tìm kiếm. BÀI 2 THIÊN CHÚA ĐẾN GẶP CON NGƯỜI - MẶC KHẢI CỦA THIÊN CHÚA (x. SGLC từ 50 đến 73). Thiên Chúa nhân lành và khôn ngoan đã muốn mặc khải chính mình và tỏ cho mọi người biết mầu nhiệm thánh ý Ngài (Ep 1,9). Nhờ đó loài người có thể đến cùng Chúa Cha, nhờ Chúa Kitô. Ngôi Lời nhập thể trong Chúa Thánh Thần, và được thông phần bản tính của Thiên Chúa (Ep 2, 18; 2Pr 1,4) - Trong việc mặc khải nầy, với tình thương chan chứa của Ngài. Thiên Chúa vô hình (Cl 1,15; 1Tm 1,17) ngỏ lời với loài người như với bạn hữu (Xh 33,11; Ga 15, 14-15). Ngài đối thoại với họ (Br 3,38) để mời gọi và đón nhận họ hiệp nhất với Ngài. Công cuộc mặc khải nầy được thực hiện bằng các hành động và lời nói liên kết với nhau". (MK 2). Thiên Chúa muốn đến gặp gỡ và tỏ mình cho con người. Chúng ta không thể hiểu và cảm thông với một người, nếu người đó không bày tỏ những tình cảm những lời nói cũng như bằng cử chỉ, thái độ. Đối với Thiên Chúa cũng tương tự như thế. Làm thế nào mà nhận biết Thiên Chúa vốn là "Thiên Chúa ẩn mình" (Is 45,15), "ngự trong ánh sáng siêu phàm. Đấng không một người nào đã thấy hay có thể thấy" (1 Tm 6,16), nếu chính Thiên Chúa không đoái thương tỏ mình ra và ban mình cho con người? Vì yêu thương, Thiên Chúa tự ý đến với con người, gần gũi họ và ngỏ lời với họ, để họ có thể gặp gỡ, nhận biết và yêu mến Người, trở nên con cái Thiên Chúa mà được sống đời đời. "Sự sống đời đời đó là nhận biết Cha. Thiên Chúa duy nhất và chân thật và nhận biết Đấng Cha đã sai đến, là Đức Giêsu Kitô" (Ga 17,3). Như vậy, mặc khải là hành động yêu thương của Thiên Chúa tỏ mình ra cho con người, để con người tự ý đón nhận và hiệp thông với Thiên Chúa, mà được cứu độ. Thiên Chúa mặc khải qua lịch sử cứu độ. "Bằng các hành động và lời nói liên kết mật thiết với nhau" (MK 2), trong suốt dòng lịch sử, Thiên Chúa mặc khải chính mình qua công trình tạo thành, đặc biệt là qua con người vốn là hình ảnh của Người. Người đã sống thân mật với ông bà nguyên tổ, và sau khi ông bà phạm tội. Người vẫn tìm đến và hứa ban ơn cứu độ. Lời hứa cứu độ được Thiên Chúa nhắc lại và cũng cố, qua các giao ước với ông Noê, với tổ phụ Áp-ra-ham. Dân Ít-ra-en được tuyển chọn với giao ước tại Xi-nai, và nhờ các ngôn sứ. Người đã chuẩn bị họ đón nhận Đấng Cứu Thế được hứa cho toàn thể nhân loại. Bằng đường lối sư phạm tuyệt hảo, Thiên Chúa đã mặc khải chính mình dần dần theo thời gian, để con người có thể sẵn sàng đón nhận Đức Giêsu Kitô. Con Một Người đã mặc khải trọn vẹn. Phụng vụ thánh lễ nhắc lại chiều dài lịch sử của mặc khải như sau: "Tuy con người mất tình nghĩa với Cha vì tội bất phục tùng. Cha cũng không đành bỏ mặc cho sự chết thống trị. Quả thế, Cha đã thương cứu giúp mọi người để những ai tìm Cha đều gặp Cha. Hơn nữa, nhiều lần Cha đã giao ước với loài người và dùng các ngôn sứ mà dạy cho biết đợi chờ ơn cứu độ" (Kinh Tạ Ơn IV). Đức Giêsu đến bổ túc và hoàn tất mặc khải. "Thuở xưa, nhiều lần nhiều cách. Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các ngôn sứ: nhưng vào thời sau hết nầy, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Thánh Tử" (Dt 1, 1-2). Thiên Chúa tỏ mình ra cách trọn vẹn và dứt khoát nơi Người Con Một, là Lời duy nhất và hoàn hảo, đã làm người và trở thành Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Nơi Đức Giêsu Kitô là cao điểm và trọn vẹn của mặc khải, Thiên Chúa đã lập Giao ước mới và vĩnh cửu, với toàn thể nhân loại. Con Thiên Chúa "đã đến bổ túc và hoàn tất mặc khải bằng tất cả sự hiện diện và tỏ mình qua lời nói cũng như việc làm, dấu chỉ và phép lạ, nhất là qua cái chết và sự sống lại vinh quang từ kẻ chết, sau cùng bằng việc phái Thần Chân Lý đến" (MK 4). Vì Đức Giêsu Kitô là lời tròn đầy và sau cùng của Chúa Cha nói với nhân loại, nên sẽ không còn mặc khải chính thức nào nữa.   Đón nhận mặc khải của Thiên Chúa. Thiên Chúa vẫn không ngừng mặc khải cho con người và tiếp tục nói với nhân loại qua mọi thời đại. Lời Thiên Chúa sẽ còn vang lên mãi cho những ai biết chân thành lắng nghe và khao khát đón nhận. Vậy người tín hữu phải làm gì để có thể đón nhận lời mặc khải của Thiên Chúa? Cần có một tâm hồn khiêm tốn để đón nhận Thiên Chúa. "Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã dấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều nầy, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn. Vâng, lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha" (Mt 11, 25-26). "Phận nữ tÿ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới" (Lc 1,48). Năng đọc và suy gẫm lời Chúa trong Kinh Thánh. "Thực thế, trong các Sách thánh, Chúa Cha trên trời, bằng tất cả lòng trìu mến, đến gặp gỡ con cái mình và ngỏ lời với họ" (MK 21). Biết đọc và nhận ra sứ điệp Chúa gửi tới qua các dấu chỉ thời đại (Lc 13, 1-5). qua thiên nhiên. qua những người gặp gỡ trong cuộc đời. qua những tôn giáo ngoài Kitô giáo. qua nghệ thuật, văn chương, triết học, những nền văn hóa, những tiến bộ khoa học, những phát minh kỹ thuật và qua những biến cố lịch sử đã và đang diễn ra. "Dân Thiên Chúa, nhờ đức tin mà tin rằng mình được Thánh Thần Thiên Chúa là Đấng bao phủ mặt đất hướng dẫn, cố gắng nhận định đâu là những dấu chỉ thực về sự hiện diện hoặc ý định của Thiên Chúa trong mọi biến cố, mọi yêu sách và ước vọng mà họ dự phần với những người đương thời" (MV 11) BÀI 3 CÁCH THỨC LƯU TRUYỀN MẶC KHẢI (x. SGLC từ 0074 đến 0095) "Những gì Thiên Chúa đã mặc khải để cứu rỗi muôn dân. Ngài đã ân cần sắp đặt để luôn được bảo tồn và lưu truyền nguyên vẹn cho mọi thế hệ." (MK 7) Mặc khải chứa đựng trong Kinh Thánh và Thánh Truyền. Trước khi về trời, Đức Giêsu đã truyền dạy các tông đồ "Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ... dạy bảo họ tuân giữ những điều Thầy đã truyền cho anh em" (Mt. 28,19-20). Các tông đồ đã thi hành mệnh lệnh ấy cách trung thành bằng hai cách: Trước hết là bằng lời nói. Lời nói ở đây được hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm "Lời giảng dạy, gương lành và các thể chế các tông đồ đã thiết lập". Những điều đó, các Ngài "đã nhận lãnh từ Chúa Kitô khi chung sống với Người và thấy Người hành động, hoặc đã học biết được nhờ Chúa Thánh Thần gợi ý" (MK 7). Đồng thời, ngoài lời nói, các tông đồ còn thi hành mệnh lệnh ấy bằng văn tự "Dưới sự linh hứng của cùng một Chúa Thánh Thần, các tông đồ và những người phụ tá của các ngài đã viết lại Tin Mừng cứu rỗi" (MK 7). Tiếp theo, để "Tin Mừng được giữ gìn toàn vẹn và sống động mãi trong Hội Thánh, các tông đồ đã để lại những người kế vị là các giám mục và trao lại cho họ quyền giáo huấn của các ngài" (MK 7). Nhờ đó, "những lời giảng dạy của các tông đồ được đặc biệt ghi lại trong các sách linh hứng, được bảo tồn và lưu truyền cho đến tận thế" (MK 8). Sự chuyển thông sống động qua các thế hệ đó, chúng ta gọi là Thánh Truyền, phân biệt với Kinh Thánh, nhưng lại gắn bó mật thiết với Kinh Thánh. Nhờ Thánh Truyền "Hội Thánh bảo tồn và lưu truyền cho mọi thế hệ tất cả thực chất của mình và tất cả những gì mình tin" (MK 8). Tương quan giữa Kinh Thánh và Thánh Truyền. Thánh Truyền và Kinh Thánh "liên kết, phối hợp mật thiết với nhau; vì cả hai phải xuất từ cùng một nguồn mạch và cùng hướng về một mục đích" (MK9). Nguồn mạch ấy là Thiên Chúa, Đấng "muốn cho mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý" (1. Tm. 2,4). Và mục đích ấy là để cứu độ con người. Tuy nhiên Thánh Truyền và Kinh Thánh được phân biệt với nhau vì là hai cách lưu truyền mặc khải khác nhau. Một đàng trong Kinh Thánh "Lời Chúa được ghi chép lại dưới sự linh hứng của Chúa Thánh Thần". Đàng khác trong Thánh Truyền, cũng là Lời Chúa, Lời mà Chúa Kitô và Chúa Thánh Thần đã ủy thác cho các tông đồ, rồi các tông đồ lưu lại toàn vẹn cho những kẻ kế vị các ngài, nhưng Lời ấy được lưu lại bằng gương sáng, thể chế và lời rao giảng. Cả hai "họp thành một kho tàng thánh thiện duy nhất chứa đựng lời Thiên Chúa" (MK 10). Vì thế, "cả Kinh Thánh và Thánh Truyền đều phải được đón nhận và tôn kính bằng một tâm tình quí mến và kính trọng như nhau" (MK 9). Huấn Quyền Lời Chúa được chứa đựng trong Kinh Thánh và Thánh Truyền là gia sản đức tin vô giá. Gia sản ấy được ủy thác cho toàn thể Hội Thánh, nghĩa là không chỉ cho hàng giáo phẩm nhưng cho tất cả Dân Thiên Chúa, trong đó "các giám mục và tín hữu hiệp nhất với nhau cách lạ lùng, cùng tuân giữ, thực hành và tuyên xưng đức tin lưu truyền" (MK.10). Tuy nhiên "nhiệm vụ chú giải chính thức Lời Chúa đã được viết ra hay lưu truyền, chỉ được ủy thác cho Huấn Quyền sống động trong Hội Thánh, và Hội Thánh thi hành quyền đó nhân danh Đức Giêsu Kitô" (MK.10). Như thế nhiệm vụ giải thích Lời Chúa được trao cho các giám mục trong mối hiệp thông với Giám Mục Rôma là Đức Giáo Hoàng. Nhiệm vụ ấy được thể hiện cách đặc biệt khi Huấn Quyền xác định những tín điều và đòi buộc mọi tín hữu phải tin. Như thế, phải chăng Huấn Quyền ở cả trên Lời Chúa? Không, Huấn Quyền "không vượt trên Lời Chúa nhưng thừa lệnh Chúa và với sự trợ giúp của Thánh Thần. Hội Thánh thành tâm lắng nghe, gìn giữ cách thánh thiện và trung thành trình bày Lời Chúa, phục vụ Lời Chúa, chỉ dạy những gì được truyền lại mà thôi" (MK.10). Thái độ của người tín hữu. Ngày nay, trong Hội Thánh, người ta nói đến tình trạng khủng hoảng quyền bính. Nhiều người chủ trương tin vào Chúa Kitô nhưng không chấp nhận giáo huấn của Huấn Quyền trong Hội Thánh. Người tín hữu Kitô đón giáo huấn của Huấn Quyền trong tinh thần đức tin: Tin rằng chính Chúa Thánh Thần tác động trên các tác giả viết Kinh Thánh, cũng chính Chúa Thánh Thần hoạt động trong truyền thống sống động của Hội Thánh, và cũng chính Chúa Thánh Thần đang tác động trên Huấn Quyền nhằm hướng dẫn các tín hữu và cứu rỗi các linh hồn (MK.10). BÀI 4 KINH THÁNH (x. SGLC: từ 0101 đến 0133) "Tất cả những gì viết trong Sách Thánh đều do Thiên Chúa linh hứng và có ích cho việc giảng dạy, biện bác sửa dạy giáo dục để trở nên công chính" (2 Tm 3,16). "Không biết Kinh Thánh là không biết Chúa Kitô" (Thánh Giê-rô-ni-mô) Đức Kitô, Lời duy nhất của Thiên Chúa. Thiên Chúa nhân lành và khôn ngoan đã muốn ngỏ lời với nhân loại, để mời gọi và đón nhận họ hiệp nhất với Ngài (MK.2). Nhưng để con người hiểu biết, đón nhận và đáp trả lời mời gọi của Ngài, Thiên Chúa đã ngỏ lời với họ bằng chính ngôn ngữ của nhân loại cũng như sau này Lời của Chúa Cha hằng hữu đến với con người bằng cách trở nên giống như loài người, mang vào mình nỗi yếu đuối của xác thịt nhân loại (MK.13). Kinh Thánh chứa đựng lời ngỏ của Thiên Chúa, trải dài trong suốt chiều dài lịch sử một dân tộc và được viết dưới nhiều hình thức khác nhau do nhiều tác giả nhân loại. Tuy nhiên, xuyên qua mọi lời được viết trong Kinh Thánh, Thiên Chúa chỉ nói một Lời duy nhất, Chúa Kitô chính là LỜI DUY NHẤT của Thiên Chúa. Lời "Lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời, Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa, và Ngôi Lời là Thiên Chúa. Lúc khởi đầu Người vẫn hướng về Thiên Chúa" (Ga. 1,1-2). Lời "đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta" (Ga. 1,14), đến nỗi "ai thấy Ngài là thấy Chúa Cha" (Ga. 14,9). Thánh Âu-tinh đã diễn tả chân lý đó cách tuyệt vời "anh em hãy nhớ rằng cũng một Lời đó của Thiên Chúa được trải ra trong toàn bộ Kinh Thánh, cũng một Lời đó vang dội trên môi miệng tất cả các văn sĩ Kinh Thánh, vì từ khởi thủy Lời là Thiên Chúa và ở bên cạnh Thiên Chúa". Chính vì thế, Hội Thánh "luôn luôn tôn kính Kinh Thánh như chính thân thể Chúa, nhứt là trong Phụng Vụ thánh. Hội Thánh không ngừng lấy Bánh ban sự sống từ bàn tiệc Lời Chúa cũng như từ bàn tiệc Mình Chúa Kitô để ban phát cho các tín hữu" (MK.21). Linh ứng và Chân Lý Kinh Thánh Nhìn từ bình diện nhân loại, Kinh Thánh là tổng hợp những tác phẩm của nhiều tác giả nhân loại. Họ là những con người cụ thể, sống trong một thời đại cụ thể, với những vấn đề của thời đại và có những khả năng riêng biệt. Tuy nhiên khi đọc Kinh Thánh, người tín hữu lại tuyên xưng "Đó là Lời Chúa" (1 Tx. 2,13). Vì họ xác tín rằng chính Thiên Chúa là Tác Giả của Kinh Thánh. Chính Thiên Chúa là Tác Giả của Kinh Thánh. Tuy nhiên, "để viết các Sách Thánh, Thiên Chúa đã chọn những con người và dùng họ trong khả năng và phương tiện của họ, để khi chính Người hành động trong họ và qua họ, họ viết ra như những tác giả đích thực, tất cả những gì Chúa muốn và chỉ viết những điều đó mà thôi" (MK.11). Hành động đó của Thiên Chúa được gọi là LINH HỨNG và "Những gì Thiên Chúa mặc khải mà Kinh Thánh chứa đựng và trình bày, đều được viết ra dưới sự lính hứng của Chúa Thánh Thần" (MK.11). Vì thế nên "Phải công nhận rằng Kinh Thánh dạy ta cách chắc chắn, trung thành và không sai lầm, những chân lý mà Thiên Chúa muốn Kinh Thánh ghi lại vì phần rỗi chúng ta" (MK.11). Chúa Thánh Thần, Đấng minh giải Kinh Thánh Vì Kinh Thánh có tác giả là chính Thiên Chúa nhưng đồng thời Thiên Chúa lại sử dụng những con người cụ thể và ngôn ngữ nhân loại, nên để hiểu được Lời Kinh Thánh, người tín hữu phải quan tâm đến cả hai mặt: Một đàng, phải "tìm ra chủ ý của thánh sử" bằng cách quan tâm đến các thể văn được sử dụng, cũng như những cách thức cảm nghĩ, diễn tả, tường thuật được thịnh hành trong khung cảnh thời đại đó (MK.12). Đàng khác, phải đọc và giải thích Kinh Thánh trong Chúa Thánh Thần (MK.12) vì Kinh Thánh được viết ra dưới tác động của Chúa Thánh Thần và cũng chỉ có Ngài mới mở lòng trí ta ra để hiểu Lời Kinh Thánh (Lc 24-45). Để đạt được mục đích này, Hội Thánh đưa ra ba tiêu chuẩn hướng dẫn người tín hữu khi đọc Kinh Thánh: Phải lưu ý đến "nội dung và sự thống nhất của toàn bộ Kinh Thánh", bởi vì tuy Kinh Thánh bao gồm nhiều tác phẩm nhưng lại duy nhất trong kế hoạch của Thiên Chúa và Chúa Kitô chính là tâm điểm của toàn bộ Kinh Thánh. Phải "dựa trên truyền thống sống động của toàn thể Hội Thánh", bởi vì Hội Thánh lưu giữ trong truyền thống sống động của mình, ký ức sống động về Lời Chúa và chính Thánh Thần hướng dẫn Hội Thánh trong việc giải thích Kinh Thánh. Phải quan tâm đến "sự tương hợp của Đức tin", nghĩa là sự nối kết giữa các chân lý đức tin với nhau và với toàn bộ kế hoạch của Thiên Chúa. Qui điển Kinh Thánh Dựa vào truyền thống tông đồ, Hội Thánh ấn định danh mục những sách được nhìn nhận là Sách Thánh. Danh mục đó được gọi là Qui điển Kinh Thánh, gồm 46 sách Cựu ước và 27 sách Tân ước. Các sách Cựu ước là thành phần thiết yếu của Kinh Thánh. Tuy "có nhiều khuyết điểm và còn tạm bợ" nhưng "các sách ấy minh chứng khoa sư phạm đích thực của Thiên Chúa" nhằm "chuẩn bị và tiên báo ngày xuất hiện của Chúa Kitô, Đấng cứu chuộc muôn loài". Đồng thời "các sách ấy diển tả một cảm thức sâu sắc về Thiên Chúa, tàng trữ những lời giáo huấn cao siêu về Ngài, những tư tưởng khôn ngoan và hữu ích về đời sống con người, những kho tàng kinh nghiệm tuyệt diệu, đồng thời ẩn chứa mầu nhiệm cứu rỗi" (MK.15). Vì thế, người Kitô hữu phải tôn kính các sách Cựu ước như Lời chân thật của Thiên Chúa. Các sách Tân ước chứa đựng Lời Thiên Chúa "Lời được trình bày cách tuyệt diệu. Lời diễn tả quyền năng Thiên Chúa và là sức thiêng cứu rỗi mọi tín hữu" (MK.17). Tâm điểm của các sách Tân ước là Đức Giêsu Kitô. Con Thiên Chúa làm người: Hành động, giáo huấn, cuộc tử nạn và phục sinh vinh hiển của Ngài: cũng như giai đoạn đầu của Hội Thánh dưới sự hướng dẫn của Thánh Thần. Trong toàn bộ Sách Thánh "Các sách Tin Mừng xứng đáng chiếm địa vị ưu đẳng, vì Tin Mừng là chứng tá chính yếu về đời sống và giáo lý của Ngôi Lời nhập thể. Đấng cứu chuộc loài người" (MK.18). Vì thế Hội Thánh tôn kính sách Tin Mừng cách đặc biệt trong cử hành phụng vụ và Tin Mừng phải chiếm vị trí ưu tiên trong đời sống Kitô hữu. Kinh Thánh trong đời sống Kitô hữu 1. "Không biết Kinh Thánh là không biết Chúa Kitô" (Thánh Giê-rô-ni-mô). Tuy nhiên trong thực tế, đời sống đức tin của người Công Giáo tại Việt Nam nhiều khi chỉ dựa vào truyền thống, tập tục, thói quen hơn là dựa trên Lời Chúa. Vì thế, người tín hữu cần tập thói quen tiếp xúc với chính bản văn Kinh Thánh, hoặc khi tham dự Thánh Lễ, hoặc trực tiếp đọc bản văn Kinh Thánh, hoặc học hỏi bằng những phương thế khác. Có như thế, Lời Chúa mới thực sự là "Đèn soi bước chân ta", ta mới thực sự biết Chúa Kitô và tập "mang trong lòng những tâm tư của Đức Giêsu" (PI 2,5). 2. Để Lời Chúa trổ sinh hoa trái (Mt 13,8), việc đọc Kinh Thánh phải đi đôi với Kinh nguyện và việc thực thi Lời Chúa. Kinh nguyện đưa ta vào cuộc đối thoại với Thiên Chúa, vì "Khi cầu nguyện, ta ngỏ lời với Ngài; khi đọc các sấm ngôn thần linh, ta nghe Ngài nói" (Am-brô-si-ô). Đồng thời phải tập sống Lời Chúa vì Đức Giêsu đã cảnh giác "Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: Lạy Chúa, lạy Chúa là được vào Nước Trời cả đâu; nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời mới được mà thôi" (Mt 7,21).   BÀI 5 CON NGƯỜI ĐÁP LỜI THIÊN CHÚA: ĐỨC TIN (x. SGLC từ 0145 đến 0175) "Đức tin là bảo đảm cho những điều ta hy vọng, là bằng chứng cho những điều ta không thấy". (Dt 11,1) "Nếu mặc khải là con đường Thiên Chúa đến với con người thì đức tin là con đường con người đến với Thiên Chúa, là sự đáp trả của con người trước tiếng nói của Thiên Chúa". (Thánh Âu-tinh) Tin là đáp lời Thiên Chúa "Với tình thương chan chứa, Thiên Chúa vô hình đã ngỏ lời với loài người như với bạn hữu. Ngài đối thoại với họ để mời gọi và đón nhận họ hiệp nhất với Ngài" (MK.2). Tin chính là đáp lại lời mời gọi của Thiên Chúa. Vì thế, thánh Phaolô nói đến sự vâng phục của đức tin. Trong cuộc sống hằng ngày, mối quan hệ của con người với con người cũng được dệt bằng sự tin tưởng lẫn nhau, nếu không cuộc sống sẽ rất nặng nề vì ngờ vực và nghi ky. Xa hơn nữa, trong tình bạn và trong cuộc sống gia đình, người ta còn đến với nhau bằng niềm tin sâu xa hơn niềm tin bao hàm cả tình yêu, tín nhiệm và trung tín, niềm tin khiến con người cởi mở cõi lòng cho nhau và nâng đỡ nhau trong mọi nỗi niềm cuộc sống. Như thế, niềm tin đã là một yếu tố căn bản và cần thiết cho cuộc sống. Thực tế đó giúp ta hiểu niềm tin vào Thiên Chúa không phải là điều chi xa lạ và trừu tượng. Tuy nhiên niềm tin vào Thiên Chúa lại mang một nội dung rất khác, vì chỉ một mình Thiên Chúa là Chân lý ban sự sống. Vì thế, niềm tin vào Thiên Chúa phải là sự gắn bó toàn diện và tuyệt đối trong mọi hoàn cảnh và không một tạo vật nào có thể đòi hỏi nơi ta niềm tin như thế. Tổ phụ Abraham và Mẹ Maria là những mẫu mực của đức tin. Vì tin, tổ phụ Abraham đã vâng lời "ra đi mà không biết mình đi đâu" (Dt 1,8). Vì tin, Mẹ Maria đã thưa với sứ thần: "Vâng, tôi đây là nữ tÿ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói" (Lc.1,38), vì "Đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được" (1, 37). Các ngài đã trao phó trọn vẹn cuộc đời cho Thiên Chúa và trở thành những người cộng tác tích cực vào chương trình của Thiên Chúa. Tin là gắn bó với Chúa Cha, qua Chúa Con, nhờ Chúa Thánh Thần Không phải chỉ có người Công Giáo mới tin vào Thiên Chúa. Rất nhiều người chia sẻ với chúng ta niềm tin ấy, cách riêng trên quê hương Việt Nam thân yêu. Tuy nhiên, hình ảnh mỗi người có về Thiên Chúa lại có thể rất khác nhau và nhiều khi, vị Thiên Chúa mà người ta tôn thờ chỉ là vị Thiên Chúa theo sở thích và trí tưởng tượng của con người. Với người Kitô hữu, niềm tin vào Thiên Chúa không thể tách ra khỏi niềm tin vào Đấng Ngài sai đến là Đức Giêsu Kitô. Chỉ một mình Ngài biết Thiên Chúa và có thể chỉ cho ta thấy Thiên Chúa đích thực "Không ai đã thấy Thiên Chúa bao giờ, nhưng Con Một là Thiên Chúa và là Đấng hằng ở nơi cung lòng Chúa Cha, chính Người đã tỏ cho chúng ta biết" (Ga 1,18). Vì thế, tin là tin vào Thiên Chúa được tỏ ra trong Đức Giêsu Kitô. Niềm tin ấy, chúng ta không thể có nếu không được chia sẻ Thánh Thần của Đức Giêsu vì "Không ai có thể nói rằng: Đức Giêsu là Chúa, nếu người ấy không ở trong Thần Khí" (1 Cr 12,3). Ngài là Đấng "thấu suốt mọi sự, ngay cả những gì sâu thẳm nơi Thiên Chúa ... Không ai biết được những gì nơi Thiên Chúa nếu không phải là Thần Khí của Thiên Chúa" (1 Cr 2,10-11). Những đặc tính của đức tin Khi tông đồ Phêrô tuyên xưng Đức Giêsu là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống. Đức Giêsu đã tuyên bố "Này anh Simon con ông Giona, anh thật là người có phúc, vì không phải phàm nhân mặc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thầy. Đấng ngự trên Trời" (Mt. 16-17). Như thế, đức tin trước hết là HỒNG ÂN Thiên Chúa ban tặng. Chính Ngài đi bước trước và trợ giúp từ bên trong "Ngài thúc đẩy và qui hướng con tim về cùng Thiên Chúa, mở mắt lý trí và làm cho mọi người cảm thấy dịu ngọt khi đón nhận và tìm theo chân lý" (MK.5). Nếu đức tin là một hồng ân thì đồng thời, TIN cũng là HÀNH VI CỦA CON NGƯỜI. Ân huệ Thiên Chúa không hủy diệt khả năng hiểu biết và ý chí tự do của con người, nhưng soi sáng, nâng đỡ và gọi mời cộng tác. Chính vì thế "Đức tin kiếm tìm hiểu biết (Thánh An-sen-mô), hiểu biết nhiều hơn về Đấng mình tin và những chân lý Ngài mặc khải, một hiểu biết sống động khiến ta gắn bó với Thiên Chúa nhiều hơn đề như thánh Âu-tinh diễn tả "Tôi tin để hiểu và tôi hiểu để tin nhiều hơn". Đồng thời, TIN là hành vi tự do vì "Thiên Chúa tôn trọng phẩm giá con người do chính Ngài tạo nên, con người ấy phải được tự do và được hướng dẫn theo chính phán đoán của mình" (TD.11). Trong cuộc sống trần thế, "Đức Giêsu đã trợ giúp và chứng thực lời giảng thuyết của Ngài bằng những phép lạ, để khơi dậy và cũng cố lòng tin của thính giả, Nhưng Ngài không hề tạo áp lực cưỡng ép họ" (TD.11). Cuối cùng, vì đức tin là sự gắn bó toàn diện con người với Thiên Chúa, nên không thể chỉ ngưng lại ở những hiểu biết xuông mà phải dẫn tới hành động. Chính vì thế, thánh Gioan nói đến việc "thực thi chân lý" và thánh Gia-cô-bê gọi "đức tin không có hành động thì quả là đức tin chết" (Gc 2,17). Người tín hữu luôn luôn tự cảnh giác vì Lời Chúa nói: "Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: Lạy Chúa! Lạy Chúa!" là được vào Nước Trời cả đâu. Những chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời mới được vào mà thôi" (Mt,7,21). Đức tin như ta vừa tìm hiểu là đòi hỏi cần thiết để được cứu độ, như Đức Giêsu đã nói với các môn đệ khi Ngài từ cõi chết sống lại "Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo tin mừng cứu độ cho mọi loài thọ tạo, Ai tin và chịu phép Rửa sẽ được cứu độ, còn ai không tin, sẽ bị kết án" (Mc.16,15-16). Ơn cứu độ ấy sẽ hoàn thành trong ngày sau hết nhưng ngay từ bây giờ, đức tin cho ta nếm hưởng ánh sánh vĩnh cữu, "bảo đảm cho những điều ta hi vọng" (Dt.11,1). Vì thế, đức tin là khởi điểm của cuộc sống vĩnh hằng. Đức tin cá nhân và cộng đoàn Không ai có thể tự ban tặng sự sống cho mình và cũng không ai có thể sống một mình, nhưng người ta đón nhận sự sống từ người khác và sống luôn luôn là sống với. Đức tin cũng thế. Một đàng, đức tin là hành vi cá nhân hiểu như lời đáp trả tự do của mỗi người trước tiếng gọi của Thiên Chúa. Nhưng đàng khác, đức tin là một quà tặng được đón nhận và đến lượt mình phải trao ban cho người khác. Hội Thánh chính là người mẹ trao ban đức tin cho ta. Vì thế, khi lãnh nhận bí tích Thanh Tẩy, thừa tác viên hỏi "Con xin gì cùng Hội Thánh Chúa?", người lãnh nhận trả lời "Con xin đức tin... Đức tin mang lại cho con sự sống đời đời" (Sách Nghi Thức Roma). Và cũng như người mẹ sinh ra con, phải dạy con nói, nhờ đó có thể hiểu biết và tiếp cận thế giới chung quanh. Cũng vậy, Hội Thánh sinh ta ra trong đức tin, đồng thời dạy ta ngôn ngữ đức tin để giúp ta hiểu và đón nhận sự sống đời đời. Những chân lý đức tin mà người mẹ Hội Thánh trao ban và dạy dỗ không phải là những công thức vô hồn, nhưng là phương thế giúp ta đạt đến chính Thiên Chúa và ơn cứu độ muôn đời. Và bởi vì "Chỉ có một Thiên Chúa, Cha của mọi người. Đấng ngự trên mọi người và trong mọi người" (Ep.4,5-6), nên xuyên qua mọi không gian và thời gian, trong nhiều nền văn hóa khác nhau và bằng nhiều ngôn ngữ của các dân tộc. Hội Thánh chỉ tuyên xưng một đức tin duy nhất. Người Kitô hữu sống đức tin 1. Cho đến hôm nay, phần đông người Công Giáo Việt Nam vẫn giữ được đời sống đức tin rất tốt, được cụ thể hóa qua việc tham dự Thánh Lễ cũng như lãnh nhận các bí tích. Tuy nhiên, đời sống đức tin ấy nhiều khi chỉ là những thói quen do ảnh hưởng của gia đình, xứ đạo hơn là một chọn lựa và dấn thân cá nhân. Một đức tin như thế sẽ khó lòng đứng vững trong khung cảnh đô thị hóa và xã hội hóa đang và sẽ diễn ra mỗi ngày một nhanh hơn. Vì thế, cần xây dựng một đức tin mang tính cá vị, hiểu như một chọn lựa tự do và ý thức trước tiếng gọi của Thiên Chúa. 2. Đức tin là lời đáp trả của con người toàn diện trước tiếng gọi của Thiên Chúa. Con người toàn diện ấy bao gồm cả lý trí, tình cảm, ước muốn và hành động. Vì thế, để sống đức tin, người tín hữu không chỉ ngừng lại ở những hiểu biết thuần lý, nhưng phải bước vào đời thờ phượng và luân lý. Nhờ cầu nguyện, ta gặp gỡ chính Đấng mà ta tin. Và niềm tin đích thực được thể hiện qua đời sống hằng ngày "Căn cứ vào điều này, chúng ta nhận ra rằng chúng ta biết Thiên Chúa, đó là chúng ta tuân giữ các điều răn của Người" (1 Ga. 2,3). Bài 6 THIÊN CHÚA DUY NHẤT (x. SGLC từ 200 đến 231 "Nghe đây, hỡi Ít-ra-en! Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta là Đức Chúa duy nhất. Hãy yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, hết lòng hết dạ, hết sức anh em". (Đnl. 6,4-5) "Nào muôn dân khắp cõi địa cầu, hãy hướng về Ta, thì các ngươi sẽ được cứu độ, vì Ta là Thiên Chúa, chẳng còn Chúa nào khác... Trước mặt Ta, mọi người sẽ quỳ gối và mở miệng thề rằng: Chỉ nhờ Đức Chúa mới có thể làm điều công chính và mới có sức mạnh". (Is. 45,22-24) Khi chúng ta tuyên xưng: "Tôi tin kính một Thiên Chúa", là chúng ta tin vào Thiên Chúa của các tổ phụ Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp. Thiên Chúa đã mặc khải danh Người cho ông Môsê, và là Thiên Chúa của Đức Giêsu Kitô. I. Thiên Chúa duy nhất Chúng ta tin nhận rằng Thiên Chúa chỉ có một, là Chúa duy nhất, bởi vì "nếu Thiên Chúa không duy nhất thì không phải là Thiên Chúa" (Tertuliano). Niềm tin vào Thiên Chúa duy nhất bắt đầu từ trong Cựu ước. Khi Thiên Chúa kêu gọi và chọn Ít-ra-en làm dân riêng và thiết lập giao ước. Người tỏ cho dân thấy: Người là Thiên Chúa duy nhất, ngoài ra không có Chúa nào khác và phải phụng thờ một mình Người (Đnl 4,39). Trong giao ước Xi-nai (Mười điều răn) điều răn thứ nhất thật rõ ràng: "Ngươi không được có thần nào khác đối nghịch với Ta" (Xh 20,3). - Mỗi lần Ít-ra-en đi theo thần khác, các ngôn sứ đều nhắc nhở và kêu gọi họ trở về với Chúa là Thiên Chúa duy nhất (xls 45,22-24). Vào thời Đức Giêsu, tất cả các người Ít-ra-en đều đọc mỗi ngày những lời sau đây: "Nghe đây, hỡi Ít-ra-en! Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất. Hãy yêu mến Đức Chúa Thiên Chúa của anh em, hết lòng hết dạ, hết sức anh em" (Đnl 6,4-5). - Niềm tin của Cựu Ước vào Thiên Chúa duy nhất, đã được chính Đức Giêsu xác nhận cách chính thức, khi dạy phải yêu mến Thiên Chúa là Đức Chúa duy nhất "hết lòng hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi" (Mc 12,30). Và Tân Ước cũng tái xác nhận niềm tin này khi phải đối đầu với đa thần giáo của dân ngoại (x.1 Cr 8,4; Ep. 4,6..) II. Thiên Chúa mặc khải tên Người Nói tên mình cho người khác là muốn có tiếp xúc trao đổi để hiểu biết thông cảm. Tên chỉ người, một con người độc đáo mà người khác có thể gọi đích danh và trở nên gần gũi - Thiên Chúa đã tỏ mình cho dân Ít-ra-en và cho biết tên của Người. Thiên Chúa có một tên gọi: Người có thể nói với chúng ta và chúng ta có thể nói với Người. Người không phải là một Thiên Chúa câm nín, nhưng là Thiên Chúa tự bộc lộ ra và người ta có thể tiếp xúc với Người. - Thiên Chúa tỏ mình cách tiệm tiến và với nhiều tên gọi khác nhau, nhưng việc Thiên Chúa mặc khải cho ông Môsê nơi bụi gai rực cháy, được coi là mặc khải căn bản nhất trong Cựu Ước và Tân Ước "Ta là Đấng Hiện Hữu" (YHWH) (Xh 3,13-15). Tên gọi nầy của Thiên Chúa cũng mầu nhiệm như chính Thiên Chúa: đó vừa là ý Chúa muốn tỏ mình cho ta, vừa là từ chối không cho biết Người. Thật ra Thiên Chúa vượt xa tất cả những gì con người có thể hiểu biết hay diễn tả, nhưng đồng thời Người cũng rất gần gũi con người. Người là Thiên Chúa hằng sống, đã từng kêu gọi và hướng dẫn các tổ phụ. Người là Thiên Chúa trung thành với các lời đã hứa, là Thiên Chúa giải thoát Ít-ra-en khỏi cảnh nô lệ và đưa vào đất hứa. Người là Thiên Chúa luôn có mặt với dân Người đã chọn, nhận lời họ kêu cầu, bảo vệ và giải thoát khỏi các thù địch, vì Người là "Đấng Hiện Hữu". Dân Ít-ra-en đã bất trung với Chúa và phản bội giao ước, nhưng "Đấng Hiện Hữu" vẫn trung thành mãi mãi, "giữ lòng nhân nghĩa với muôn ngàn thế hệ". (Xh 34,7) vẫn là "Thiên Chúa giàu lòng thương xót" (Ep 2,4), "đến nổi đã ban Con Một" (Ga 3,16): Đức Giêsu đã quả quyết rằng: Người cũng mang tên gọi thần linh, khi hiến mình giải thoát chúng ta trên thập giá: "Khi các ông giương cao Con Người lên, bấy giờ các ông sẽ biết là Tôi Hằng Hữu" (Ga 8,28). Cuối cùng Thánh danh: "Đấng Hiện Hữu" còn quả quyết rằng: chỉ mình Thiên Chúa hiện hữu, bất biến, không có khởi đầu và không có tận cùng. Ngoài ra "muôn vật đều do Người mà có, nhờ Người mà tồn tại và quy hướng về Người" (Rm 11,36), và "chính ở nơi Người mà chúng ta sống, cử động và hiện hữu" (Cv 17,28). III. Thiên Chúa là chân lý và tình yêu Thiên Chúa tỏ mình ra cho dân Ít-ra-en là Thiên Chúa "giàu nhân nghĩa và thành tín" (Xh 34,6). Đây là hai đặc tính căn bản nói lên tất cả những nét phong phú của danh Thiên Chúa. Trước hết Thiên Chúa là chân lý. Người không thể lừa dối, luôn trung thành thực hiện các lời đã hứa. Con người có thể hoàn toàn tin cậy vào tính chân thực và lòng trung thành của Chúa trong lời nói cũng như việc làm của Người. Tội lỗi của ông bà nguyên tổ chính là nghi ngờ về tính chân thật và lòng trung thành của Thiên Chúa. "Căn nguyên lời Ngài là chân lý Mọi quyết định công minh của Ngài tồn tại muôn năm" (Tv 118,160) "Lạy Chúa Thượng là Đức Chúa, chính Ngài là Thiên Chúa, những lời Ngài phán là chân lý" (2 Sm 7,28) "Chúa thành tín trong mọi lời Chúa phán Đầy yêu thương trong mọi việc Người làm" (Tv 145,13) Con Thiên Chúa xuống thế gian làm người "là để làm chứng cho sự thật" (Ga 18,37). "Chúng ta biết rằng Con Thiên Chúa đã đến và cho chúng ta trí khôn để biết Thiên Chúa thật" (1 Ga 5,20). Thiên Chúa không chỉ là chân lý mà còn là tình yêu. Trải qua dòng lịch sử. Ít-ra-en đã khám phá ra rằng: họ được Thiên Chúa mặc khải và tuyển chọn, hoàn toàn là vì tình yêu nhưng không của Người. Cũng chính tình yêu đó đã không ngừng giải thoát và tha thứ những bất trung của dân được chọn. Đó là tình yêu của cha đối với con (x.Hs 11,1), tình yêu của chồng đối với vợ (x.Is 62, 4-5) bất chấp phản bội (x.Ed 16; Hs 11). Tình yêu đó đi tới tột đỉnh khi Thiên Chúa trao ban Con Một cho chúng ta (x.Ga 3,16). "Núi có dời có đổi, đồi có chuyển có lay, tình thương của Ta đối với ngươi vẫn không thay đổi" (Is 54,10). "Ta đã yêu ngươi bằng mối tình muôn thuở, nên Ta vẫn dành cho ngươi lòng xót thương" (Gr 31,3). Nhưng mặc khải Tân Ước đã đi xa hơn, đi tới ngọn nguồn khi xác quyết: "Thiên Chúa là tình yêu" (1 Ga 4,8: 16). Bản thân Thiên Chúa là tình yêu trao đổi giữa Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần; Người muốn và ban khả năng cho ta thông phần vào tình yêu nầy, nên đã sai Con Một và Thánh Thần tình yêu đến với ta. IV. Sống niềm tin vào Thiên Chúa duy nhất Thiên Chúa duy nhất, Đấng hiện hữu làm cho mọi vật được hiện hữu. Tất cả đều lệ thuộc vào Thiên Chúa và Người làm chủ mọi loài mọi vật trên trời dưới đất. 1. Đứng trước Thiên Chúa cao cả và bí nhiệm, con người khám phá và nhận ra mình bé nhỏ, hèn kém và tội lỗi. Nhưng sự cao cả siêu việt của Thiên Chúa không đè bẹp con người mà nâng họ dậy, làm cho họ tin tưởng, và mời gọi họ thông phần vinh quang với Người. Ông Môsê được lệnh phải cởi dép ra khi đến với Thiên Chúa chí thánh, và dù thấy mình bất tài, ông vẫn được sai đi để trở thành vị cứu tinh của Dân được chọn (x.Xh 3,1-12). Trước vinh quang thánh thiện Thiên Chúa, ngôn sứ I-sai-a phải kêu lên và hốt hoảng vì sự ô uế của mình, nhưng rồi ông đã đáp lại lời mời gọi của Thiên Chúa (x.Is 6,18). Ông Phêrô đã nhận ra sự yếu hèn trước Đấng Thánh của Thiên Chúa (Lc 1,35): "Lạy Chúa, xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi", nhưng sau đó, ông đã cùng với các bạn đi theo Người làm môn đệ (x.Lc 5,8-11). Thái độ căn bản và thường xuyên của người tín hữu Kitô là khiêm tốn. Khiêm tốn là ân huệ Chúa ban, để con người nhận ra và sống bản chất đích thực của mình mà tôn thờ Thiên Chúa duy nhất cho phải đạo, nhưng thái độ và tâm tình khiêm tốn chỉ có được tùy ở mức độ con người gặp gỡ, hiện diện với Thiên Chúa. Nếu loài người được Chúa yêu thương (x.Lc 2,14), thì những người khiêm nhường bao giờ cũng là những người đầu tiên đón nhận tình thương nầy (x.GLCG 725) (x.lPr 5,6). 2. Thiên Chúa cao cả vô song đã đoái thương tỏ mình ra cho con người, cho biết danh thánh của Người, ngỏ lời với họ như với bạn hữu (MK 2). Trước tấm lòng ưu ái và ân cần của Thiên Chúa nhân lành, tâm tình hợp lý và chính đáng của con người phải là tri ân và cảm tạ. "Hãy tạ ơn trong mọi hoàn cảnh. Anh em hãy làm như vậy, đó là điều Thiên Chúa muốn trong Đức Kitô Giêsu" (1 Tx 5,18). 3. Tin rằng Thiên Chúa đã mặc khải chính mình, đã đối thoại với con người (x.Br 3,38) và hằng lắng nghe con người, nhất là qua Người Con Một là Đức Giêsu Kitô, nên chúng ta có thể tín thác vào Thiên Chúa trong mọi hoàn cảnh, kêu cầu Người trong mọi lúc. "Khi tôi kêu, Chúa đã nghe lời" (TV 4,4) "Con kêu lên Ngài lạy Thiên Chúa. Vì Ngài đáp lời con. Xin lắng tai và nghe tiếng con cầu" (TV 16,6). Bài 7 THIÊN CHÚA LÀ CHA VÀ CON VÀ THÁNH THẦN (x. SGLC. từ 0232 đến 0260) "Nguyện xin ân sủng Đức Giêsu Kitô. Chúa chúng ta, tình yêu của Chúa Cha, và ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thần ở cùng tất cả anh chị em" (Lời chào đầu lễ). (x.2 Co 13,13). "Cùng với Con Một Cha và Chúa Thánh Thần. Cha là Thiên Chúa duy nhất, là Chúa Tể duy nhất, không phải trong một ngôi đơn độc nhưng trong Ba Ngôi cùng một bản thể". (Kinh tiền tụng lễ Chúa Ba Ngôi). Đời Kitô hữu được bắt đầu với bí tích Thánh tẩy. Trước khi lãnh nhận bí tích, người tín hữu được mời gọi tuyên xưng đức tin vào Thiên Chúa là Cha và Con và Thánh Thần; sau đó họ chịu phép Rửa "nhân danh Chúa Cha và Chúa Con và Chúa Thánh Thần". Bí tích Thánh tẩy là nền tảng cho đức tin và là cánh cửa khai mở đời sống Kitô hữu. Cũng thế, mầu nhiệm Thiên Chúa là Cha và Con và Thánh Thần là nền tảng, suối nguồn của mọi mầu nhiệm Kitô giáo và là ánh sáng chiếu soi các mầu nhiệm ấy. I. Thiên Chúa tỏ mình qua Đức Giêsu "Không ai đã thấy Thiên Chúa bao giờ, nhưng Con Một là Thiên Chúa và là Đấng hằng ở nơi cung lòng Chúa Cha, chính Người đã tỏ cho chúng ta biết" (Ga 1,18). Chỉ nhờ Đức Giêsu Kitô, ta mới biết được Thiên Chúa trong ánh sáng chan hòa và huyền nhiệm khôn dò của Người. Thiên Chúa ấy là Thiên Chúa DUY NHẤT. Trong giáo huấn của mình, Đức Giêsu tiếp tục rao giảng niềm tin độc thần đã cắm rễ sâu trong Cựu ước. Khi được hỏi: "Thưa Thầy, trong mọi điều răn, điều răn nào đứng đầu?" Đức Giêsu trả lời: "Điều răn đứng đầu là: Nghe đây hỡi Ít-ra-en, Đức Chúa Thiên Chúa chúng ta là Đức Chúa duy nhất. Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi" (Mc 12, 28-30). Đồng thời, Đức Giêsu lại tỏ ra cho ta biết Thiên Chúa là CHA, không phải theo nghĩa thường gặp trong nhiều tôn giáo khi khẩn cầu Thiên Chúa như một người Cha, nhưng theo nghĩa sâu xa đặc biệt: Cha chỉ là Cha trong tương quan với Người Con duy nhất và ngược lại, Con chỉ là Con trong tương quan với Cha. Vì thế, Đức Giêsu nói "Không ai biết Người Con, trừ Chúa Cha; cũng như không ai biết Chúa Cha, trừ Người Con và kẻ mà Người Con muốn mặc khải cho" (Mt 11,27). Ngoài ra, trước khi bước vào cuộc tử nạn. Đức Giêsu loan báo với các môn đệ là Ngài sẽ gởi đến Đấng Bảo Trợ khác "Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em" (Ga 14,26). Như thế, Đức Giêsu tỏ cho ta biết Thiên Chúa là Đức Chúa duy nhất, nhưng đồng thời Thiên Chúa duy nhất là Cha và Con và Thánh Thần. Cha và Thánh Thần hằng hiện diện và hoạt động nơi Con. Khi Con xuống thế làm người, sứ thần loan báo cho Mẹ Maria: "Thánh Thần sẽ ngự xuống trên Bà... Vì thế, Người Con sinh ra sẽ là Thánh, và được gọi là Con Thiên Chúa" (Lc 1,35). Và khi Đức Giêsu chịu phép Rửa - biến cố mở đầu cuộc sống công khai - Ngài "thấy Thần Khí tựa chim bồ câu ngự xuống trên mình. Lại có tiếng từ trời phán rằng: Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con" (Mc 1,10-11). II. Định tính của Hội Thánh Là nền tảng, suối nguồn và ánh sáng chiếu soi tất cả đời sống Kitô hữu, nên mầu nhiệm Thiên Chúa duy nhất là Cha và Con và Thánh Thần đã ghi dấu ấn rất đậm nét trong công thức rửa tội "nhân danh Cha và Con và Thánh Thần", trong văn bản của các tông đồ "Nguyện xin ân sủng của Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta, tình yêu của Chúa Cha và ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thần ở cùng tất cả anh chị em". Đồng thời trong cử hành phụng vụ, lời khẩn cầu của Hội Thánh luôn luôn là "Nhờ Đức Giêsu Kitô Con Cha và là Chúa chúng con, Người hằng sống và hiển trị cùng Cha, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời". Và lời ngợi khen trọn vẹn nhất là "Chính nhờ Đức Kitô, cùng với Đức Kitô và trong Đức Kitô, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần, mọi vinh quang và danh dự đều qui về Cha là Thiên Chúa toàn năng, đến muôn thuở muôn đời". Cũng vì mầu nhiệm ấy là nền tảng cho tất cả đời sống Hội Thánh, nên ngay từ những thế kỷ đầu tiên, Hội Thánh đã không ngừng suy niệm, vừa để đào sâu mầu nhiệm vừa để bảo vệ đức tin tinh tuyền khỏi những quan niệm lệch lạc. Những suy niệm ấy dẫn đến định tín được hình thành trong các Công đồng đầu tiên, với sự cộng tác đắc lực của các giáo phụ và cảm thức đức tin của Dân Chúa. Nhằm trình bày mầu nhiệm cách sâu sắc và chính xác. Hội Thánh đã mượn lấy những ý niệm về ngôn từ triết học đương thời để tuyên xưng "Thiên Chúa duy nhất, không phải trong một ngôi đơn độc, nhưng trong Ba Ngôi cùng một bản thể. Ba Ngôi tuy riêng biệt, nhưng cùng một bản thể duy nhất và một uy quyền ngang nhau". (Kinh tiền tụng lễ Chúa Ba Ngôi). Kế hoạch và công trình cứu độ là của chung Ba Ngôi, vì Ba Ngôi chỉ có một bản thể như nhau nên cũng chỉ có một công việc như nhau. Tuy nhiên, mỗi Ngôi thực hiện công trình chung theo biệt tính của mình. Chính vì thế trong Kinh Tin Kính, người tín hữu tuyên xưng một Chúa Duy Nhất là Cha toàn năng, Đấng Tạo Thành, Là Đức Giêsu Kitô Con Một Thiên Chúa đã xuống thế làm người để cứu độ loài người là Thánh Thần Đấng ban sự sống. III. Ánh sáng cho cuộc đời 1. Bắt đầu ngày sống và trước mỗi công việc, người tín hữu có thói quen làm dấu Thánh giá "Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần". Làm việc gì nhân danh ai, phải đặt công việc đó trong đường hướng và ý muốn của người mình nhân danh. Ước gì ngày sống và mọi công việc chúng ta làm được thực hiện trong tâm tình và theo đường hướng của Chúa Ba Ngôi, Chúa Tình Yêu. 2. Thiên Chúa được tỏ ra trong Đức Giêsu Kitô không phải là Thiên Chúa đơn độc, nhưng là cộng đồng Ba Ngôi, trong đó mỗi Ngôi hướng về hai Ngôi khác bằng tất cả tình yêu trao ban và đón nhận. Mầu nhiệm ấy trở thành ánh sáng và động lực thúc đẩy cuộc sống của ta trên bình diện cá nhân, gia đình cũng như xã hội. Bài 8 THIÊN CHÚA LÀ ĐẤNG SÁNG TẠO VÀ QUAN PHÒNG (x SGLC từ 0268 đến 0314) "Lạy Đức Chúa là Chúa chúng con, lẫy lừng thay danh Chúa trên khắp cả địa cầu". (Tv 8,2) "Trời xanh tường thuật vinh quang Thiên Chúa. Không trung loan báo việc tay Người làm. Ngày qua mách bảo cho ngày tới, Đêm này kể lại với đêm kia Chẳng một lời một lẽ Chẳng nghe thấy âm thanh Mà tiếng vang đã dội khắp hoàn cầu Và thông điệp loan đi tới chân trời góc biển" (Tv 18,2-5) Thiên Chúa duy nhất là Cha và Con và Thánh Thần, là Đấng Toàn Năng đã lấy khôn ngoan và tình thương mà sáng tạo muôn vật hữu hình và vô hình "để ban cho chúng đầy tràn ơn phúc và cho nhiều thọ tạo được vui hưởng ánh sáng huy hoàng" (Kinh Tạ Ơn IV), và Người còn luôn chăm sóc hướng dẫn mọi thụ tạo. Vì thế Chúa Kitô mời gọi ta tín thác nơi Thiên Chúa quan phòng với tình con thảo (x.Mt 6,26-34). Còn thánh Phêrô nhắn nhủ: "mọi âu lo, hãy trút cả cho Người, vì Người chăm sóc anh em" (1 Pr 5,7)   I. Giáo lý về Thiên Chúa sáng tạo rất quan trọng cho cả đời người Con người ở mọi thời mọi nơi đều vẫn thắc mắc mình từ đâu đến, đi về đâu, mình bắt nguồn từ đâu, mục đích đời người là gì, mọi vật hiện hữu bởi đâu đến và đi về đâu... Trí tuệ con người chỉ có thể giải đáp một phần, nhưng rất thiếu sót và chưa thỏa đáng. Thế mà việc biết đúng nguồn cuội và cùng đích đời người lại là hai việc tối quan trọng không thể tách rời nhau, vì chung quyết định về ý nghĩa và hướng đi cho cuộc đời cũng như mọi hành động của con người. Vì thế Thiên Chúa đã mặc khải dần dần qua lịch sử cứu độ, khi tuyển chọn dân tộc Ít-ra-en và ký kết giao ước với họ (x. ba chương đầu của Sách Sáng Thế). Sau cùng Chúa Kitô đã đến mặc khải trọn vẹn và dứt khoát để giúp ta hiểu rằng nguồn cuội và cùng đích đời người cũng như vũ trụ vạn vật chính là Thiên Chúa. II. Thiên Chúa sáng tạo trời đất, muôn vật hữu hình và vô hình Kinh Tin Kính tuyên xưng "Thiên Chúa là Cha toàn năng, Đấng Tạo Thành trời đất, muôn vật hữu hình và vô hình": Thế giới hữu hình: Tất cả mọi tạo vật hữu hình đều do Thiên Chúa sáng tạo, mỗi vật đều "có sự vững chãi, chân thực và tốt lành, cùng với trật tự và những định luật riêng" (MV 36); mỗi vật đều phản ánh một phần sự khôn ngoan và tốt lành của Thiên Chúa; không vật nào có thể tự mãn, nhưng phải tùy thuộc lẫn nhau, để bổ túc và phục vụ cho nhau; mỗi vật ở một cấp bậc khác nhau từ kém đến hoàn hảo hơn, nhưng con người là chóp đỉnh của tạo thành, vì được tạo dựng riêng biệt (x.St 1,26). Thế giới vô hình: gồm các vật thuần thiêng, không có thể xác, Kinh Thánh gọi là thiên thần. Đó là các tôi tớ và sứ giả của Thiên Chúa. Các ngài có trí tuệ, ý chí, ngôi vị và bất tử, vì thế hoàn hảo hơn các thụ tạo hữu hình. Các ngài được dựng nên để phục vụ suốt dòng lịch sử cứu độ: từ việc đóng cửa Vườn Địa Đàng (x.St 3,24) qua biến cố báo tin Chúa Kitô xuống thế làm người (Lc 1,26) đến việc "phúc âm hóa muôn dân" (x.Lc 2,10) sau cùng là tập họp muôn dân từ bốn phương lại để Chúa Kitô phán xét chung (x.Mt 24,31). Trong thánh lễ, Hội Thánh hiệp với các thiên thần để ca tụng Thiên Chúa chí thánh. Và trong cuộc sống "mỗi tín hữu đều có một thiên thần hộ mệnh để bảo trợ và hướng dẫn đến sự sống đời đời" (Thánh Ba-xi-li-ô). "Thiên Chúa thấy mọi sự Ngài đã làm ra: rất là tốt đẹp" (St 1,31).   III. Sáng tạo là công trình của Thiên Chúa Ba Ngôi Đấng toàn năng và quan phòng. Ta thường nghĩ rằng Chúa Cha sáng tạo, Chúa Con cứu độ, Chúa Thánh Thần thánh hóa, vì Kinh Tin Kính tuyên xưng như vậy. Thực ra, toàn bộ kế hoạch của Thiên Chúa bao gồm sáng tạo, cứu độ và thánh hóa, đều là công trình chung của cả Ba Ngôi, Thiên Chúa đã sáng tạo "để làm vinh quang danh Người và tạo nên hạnh phúc cho chúng ta" (TG 2). Thiên Chúa là Đấng Toàn Năng: "Thiên Chúa chúng ta ở trên trời, muốn làm gì Chúa làm nên" (Lc 1,113B,3); "không có gì là không thể làm được" (Lc 1,37); "Đấng làm cho kẻ chết được sống, và khiến những gì không có hóa có" (Rm 4,17). Người đã tạo dựng muôn vật từ hư vô, không cần gì vật có trước, không cần trợ giúp (x.DS 3022). Thiên Chúa còn là Cha (x.Mt 6,9) nên sau khi sáng tạo Người vẫn tiếp tục chăm sóc và điều khiển mọi thụ tạo (Mt 6,32) "một cách cụ thể và trực tiếp", để tất cả mọi người mọi vật từ tình trạng tốt lành và hoàn hảo ban đầu có thể tiến hóa dần dần đến mức hoàn hảo như ý Người muốn. Hội Thánh gọi công việc đó là việc Thiên Chúa quan phòng. IV. Tại sao có sự xấu, sự dữ? Thiên Chúa toàn năng đầy khôn ngoan và giàu tình thương đã sáng tạo muôn vật đều tốt lành nhưng chưa toàn hảo, vì Người muốn chúng còn "ở trong tình trạng hành trình" qua dòng thời gian, để liên đới bổ túc cho nhau mà tiến hóa tới mức toàn hảo sau cùng. Trong quá trình tiến hóa đó, có vật trở nên tốt hơn, có vật xấu hơn và bị đào thải. Do đó cùng với sự tốt thể lý, cũng có sự xấu thể lý. Còn thiên thần và con người là thụ tạo có trí tuệ và tự do, cũng phải tiến tới cùng đích của mình bằng cách chọn lựa cho mình trở nên tốt hơn hoặc xấu hơn. Và thực sự họ đã chọn lựa sai lầm để phạm tội. Do đó, sự xấu luân lý đã nhập vào thế gian. Như thế, sự xấu, sự dữ luân lý đều không do Thiên Chúa muốn, dầu là trực tiếp hay gián tiếp. Tuy nhiên Người để chúng xảy ra, vì Người tôn trọng tự do của thụ tạo, và vì Người có thể rút từ sự xấu, sự dữ ấy ra sự lành còn tốt đẹp hơn gấp bội nữa (x.St 45,8; 50,20; Rm 5,20) Đây là một huyền nhiệm, huyền nhiệm về sự xấu, sự dữ mà chỉ một mình Chúa Kitô, Đấng đã chịu chết và sống lại mới mặc khải được, và chỉ tới ngày được giáp mặt với Thiên Chúa ta mới hiểu hết được. (x.1 Cr 13,12) V. Thiên Chúa sáng tạo và cuộc sống con người hôm nay. Người Việt Nam rất quen thuộc với Trời, gặp chuyện tốt xấu may rủi đều kêu trời, coi trời như Tạo Hóa: ngẫm hay muôn sự tại trời; trời sinh voi, trời sinh cỏ; cha mẹ sinh con, trời sinh tính... Nhiều người còn lập bàn thờ "ông Thiên" để tỏ lòng hiếu thảo với Trời. Người Việt Nam cùng khao khát hạnh phúc và luôn cầu Trời cho mình được "Phúc Lộc Thọ" và gặp mọi sự may mắn. Vì thế, giáo lý về Thiên Chúa sáng tạo và quan phòng không xa lạ với ta, trái lại giúp ta hiểu sâu sắc hơn; Trời chính là Thiên Chúa, là chủ trời đất, là Cha Toàn Năng yêu thương. Giáo lý ấy phải giúp ta có thái độ đúng đắn hơn. 1. Đối với Thiên Chúa: Biết Thiên Chúa là Cha Toàn Năng, còn ta là con và là thụ tạo của Người, nên ta không lo Người bất lực, bất trung, không sợ Người làm mất phẩm giá và tự do của ta. Trái lại, ta yêu mến tôn thờ Người trên hết mọi sự với tình con thảo. Biết Thiên Chúa quan phòng chăm sóc điều khiển mọi vật mọi loài, nên ta nghe lời Chúa Kitô dạy để hoàn toàn tin tưởng và phó thác nơi Thiên Chúa quan phòng (Mt 65,31-33), cứ lo chuyên cần lao động và phát minh... theo khả năng của ta, Người sẽ giúp ta thành tựu theo chương trình của Người: mưu sự tại nhân, thành sự tại Thiên. 2. Đối với mọi người mọi vật: Biết mọi người mọi vật đều là thụ tạo như nhau, nên ta không sợ hãi hoặc tôn thờ bất cứ ai hay vật gì. Mỗi người mỗi vật lại đều phản ánh sự khôn ngoan và tình thương của Thiên Chúa, nên ta không kÿ thị, không gây ô nhiễm cho môi sinh, không hủy diệt chúng vô cớ. Trái lại, ta tuân giữ "điều răn mới về tình yêu của Chúa Kitô, đó là luật căn bản để kiện toàn con người, và do đó để cải tạo thế giới", nghĩa là "biến cải cuộc sống mình trở nên nhân đạo hơn, và quy phục trái đất" (Mv 38) về một đích là "trời mới đất mới, nơi công lý ngự trị" (2 Pr 3,13). 3. Đối với sự xấu, sự dữ: Biết Thiên Chúa đã sáng tạo mọi loài vật tốt đẹp, và sự xấu sự dữ không do Thiên Chúa, nên ta không bất mãn với Thiên Chúa, hoặc tuyệt vọng trước sự dữ. Trái lại, ta noi gương Chúa Kitô để cùng Người chống lại sự dữ dưới mọi hình thức, và cố gắng sống và làm nhiều việc tốt lành để hòa giải những sự dữ với niềm tin tưởng rằng: "Thiên Chúa làm cho mọi sự đều sinh ích cho những ai yêu mến Người" (Rm 8,28). Bài 9 THIÊN CHÚA TẠO DỰNG CON NGƯỜI (x.SGLC từ 0355 đến 0379). Thiên Chúa tạo dựng con người theo hình ảnh Ngài, có nam có nữ. Con người có vị trí ưu việt trong công trình sáng tạo và được tham dự vào đời sống thân mật với Thiên Chúa. Không có câu hỏi nào gay gắt cho bằng câu hỏi con người đặt ra về chính mình: "Con người đã và còn đang đưa ra nhiều quan niệm về chính mình, những quan niệm khác nhau và đôi khi trái nghịch nhau" (MV 12) và chính quan niệm ấy dẫn lối cho cuộc sống. Chính vì thế, câu hỏi về con người có tầm quan trọng đặc biệt, và Hội Thánh "được Thiên Chúa là Đấng mặc khải dạy dỗ, có thể đem lại câu giải đáp cho những khó khăn ấy, nhờ đó diễn tả được thân phận đích thực của con người, giãi bày những yếu hèn, đồng thời có thể nhìn nhận xác đáng phẩm giá và thiên chức của con người" (MV 12). I. Con người là hình ảnh Thiên Chúa Trong biết bao nhiêu câu trả lời về con người, Kinh Thánh đưa ra định nghĩa đơn sơ mà sâu sắc "Con người là hình ảnh Thiên Chúa" (St 1,24). Là hình ảnh của Thiên Chúa nên con người mang phẩm giá đặc biệt, vượt trên vạn vật, đến nỗi tác giả Thánh Vịnh phải kêu lên: "Ngắm tầng trời tay Chúa sáng tạo, Muôn trăng sao Chúa đã an bài, thì con người là chi, mà Chúa cần nhớ đến, Phàm nhân là gì mà Chúa phải bận tâm? Chúa cho con người chẳng thua kém thần linh là mấy, ban vinh quang danh dự làm mũ triều thiên, cho làm chủ công trình tay Chúa sáng tạo, đặt muôn loài muôn sự dưới chân" (Tv 8,4-7) Là hình ảnh của Thiên Chúa, con người có khả năng đặc biệt, khả năng nhận biết và yêu mến (x. MV 12), nhờ đó con người có thể đáp trả tiếng gọi của Thiên Chúa và bước vào giao ước yêu thương với Ngài. Là hình ảnh của Thiên Chúa nên con người là đỉnh cao của tạo thành và Thiên Chúa đã tạo dựng mọi sự là cho con người "Trời và đất, biển khơi và mọi tạo vật là để cho con người" (Thánh Gioan Kim Khẩu). Nhưng đồng thời, con người không thể quên rằng họ được tạo nên để phụng sự, yêu mến Thiên Chúa, và phải hiến dâng tất cả tạo thành cho Ngài. Phẩm giá cao cả nầy chỉ hiểu được trọn vẹn nhờ Đức Giêsu, vì "Mầu nhiệm về con người chỉ thực sự được sáng tỏ trong Mầu nhiệm Ngôi Lời nhập thể" (MV 22). Chính giáo huấn, cuộc sống, cái chết và sự phục sinh của Đức Giêsu bày tỏ tất cả nghĩa cao cả của bản thân và cuộc sống con người. II. Con người là xác và hồn Bằng ngôn ngữ biểu tượng, Kinh Thánh mô tả "Đức Chúa là Thiên Chúa lấy bụi từ đất nặn ra con người, thổi sinh khí vào lỗ mũi và con người trở nên một sinh vật" (St 2,7). Như thế, nơi con người có cả yếu tố vật chất và yếu tố tinh thần, và cả hai tạo nên bản tính duy nhất, liên kết chặt chẽ với nhau: con người duy nhất xác hồn. "Xét về thể xác, con người là một tổng hợp những yếu tố thuộc thế giới vật chất" (MV 14), nhưng tổng hợp vật chất ấy lại được linh động hóa bởi nguyên lý tinh thần là hồn thiêng. Vì thế, "con người không lầm lẫn khi họ nhận biết mình cao cả hơn vũ trụ vật chất, và không chỉ coi mình như một mảnh vụn của thiên nhiên hay như một phần tử vô danh trong xã hội loài người. Bởi vì nhờ có nội giới, con người vượt trên mọi vật" (MV 14). Hồn thiêng ấy do Thiên Chúa trực tiếp tạo nên và ban tặng, chứ không do cha mẹ tạo nên. Đồng thời, hồn thiêng mang tính bất tử, không bị tiêu diệt, kể cả khi hồn lìa khỏi xác trong giờ chết, nhưng sẽ kết hợp lại với thân xác trong cuộc phục sinh sau cùng. III. Con người là nam và nữ "Ngay từ khởi thủy, Thiên Chúa đã tạo dựng con người có nam và có nữ" (MV 12; St 1,27), nghĩa là có sự khác biệt nhưng đồng thời lại bình đẳng với nhau: khác biệt về phái tính cùng với những nét độc đáo của mỗi phái, nhưng bình đẳng về phẩm giá, vì cả hai đều là hình ảnh của Thiên Chúa, phản ánh sự khôn ngoan và tốt lành của Ngài. Họ được tạo dựng để sống với nhau và cho nhau. Kinh Thánh mô tả: "Đức Chúa là Thiên Chúa phán: con người ở một mình thì không tốt. Ta sẽ làm cho nó một trợ tá tương xứng với nó" (St 2,18). Nhưng bởi vì giữa bao nhiêu thú vật, chim trời và dã thú, người nam vẫn không tìm được một trợ tá tương xứng, nên "Thiên Chúa lấy cái xương sườn đã rút từ người nam, làm thành một người đàn bà" và lúc ấy người nam reo lên "Đây là xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi" (St 1,22-23), tiếng reo của khám phá, của tình yêu và thông hiệp. Và cả hai kết hợp với nhau "thành một xương một thịt" (St 2,24). Sự liên kết giữa họ và tạo nên cộng đoàn đầu tiên giữa người với người (MV 12), trong đó hai người nam nữ vừa bình đẳng, vừa bổ túc cho nhau. Nhờ đó, họ "cộng tác đặc biệt vào công trình tạo dựng của Thiên Chúa, Ngài đã chúc lành cho họ, và phán: Hãy sinh sôi nẩy nở thật nhiều" (MV 50). Sự liên kết ấy còn diễn tả bản tính thâm sâu của con người "là một hữu thể có tính xã hội và nếu không liên lạc với người khác, sẽ không thể sống và phát triển tài năng của mình" (MV 12). IV. Con người trong vườn địa đàng Con người nguyên thủy sống trong mối hiệp thông thân tình với Thiên Chúa, hài hòa với chính mình, với nhau và với cả vạn vật chung quanh. Kinh Thánh diễn tả bằng hình ảnh địa đàng, nơi con người sống, cày cấy và canh giữ đất đai (x. St 2,4-15). Hội Thánh gọi tình trạng đó là tình trạng công chính nguyên thủy, và con người "được tham dự đời sống thần linh" (GH 2). Trong hạnh phúc nguyên thủy đó, con người làm chủ chính mình, không chịu sự thống trị của dục vọng, không phải đau khổ và chết chóc, lao động không là gánh nặng nhưng là sự cộng tác của con người với Thiên Chúa, nhằm kiện toàn chính bản thân và cả công trình tạo dựng của Thiên Chúa. Tuy nhiên, hạnh phúc nguyên thủy ấy đã bị mất đi khi con người sa ngã trong Adam. (x. GH 2). V. Sống ơn gọi làm người Mặc khải của Thiên Chúa về phẩm giá con người phải trở thành ánh sáng soi lối cho cuộc sống người Kitô hữu, trong cuộc sống của bản thân cũng như trong mọi mối quan hệ đời sống. 1. Con người là hình ảnh của Thiên Chúa. Phẩm giá cao quý ấy được bộc lộ trọn vẹn nơi Đức Giêsu, Đấng Thiên Chúa làm người, và đã tự đồng hóa mình với những người nghèo khổ, hèn mọn nhất. Chính vì thế, con người trở thành con đường của Hội Thánh, và người Kitô hữu phải biết trân trọng con người, những con người cụ thể ta gặp trong cuộc sống, dù là trẻ thơ hay già cả, giàu có hay nghèo hèn, mạnh khỏe hay yếu đau, bạn hay thù... vì tất cả đều là hình ảnh của Thiên Chúa, và Đức Giêsu đang hiện diện trong họ (x. Mt 25,40). 2. Ý thức về con người duy nhất xác hồn giúp người Kitô hữu ý thức bản chất và vận mạng cao cả của mình, để biết ngẩng đầu lên và hướng lòng đến những sự trên trời. Phát triển kinh tế và những tiện nghi vật chất là điều cần thiết và hữu ích, nhưng chúng ta cũng dễ bị cám dỗ để quên mất rằng "Nhân linh ư vạn vật" và "mang trong lòng những khát vọng vô biên, được mời gọi tới một cuộc sống cao cả hơn" (MV 10). Vì thế, phải hướng đến việc phát triển con người toàn diện, chứ không chỉ về thân xác và vật chất mà thôi. Bài 10 CON NGƯỜI SA NGÃ (x. SGLC từ 385 đến 412). "Cũng như vì một người duy nhất đã sa ngã mà mọi người bị Thiên Chúa kết án, thì nhờ một người duy nhất đã thực hiện lẽ công chính, mọi người cũng được Thiên Chúa làm cho nên công chính, nghĩa là được sống. Thật vậy, cũng như vì một người duy nhất đã không vâng lời Thiên Chúa, mà muôn người thành tội nhân, thì nhờ một người duy nhất đã vâng lời Thiên Chúa, muôn người cũng sẽ thành người công chính" (Rm 5,18-19). Thiên Chúa vô cùng tốt lành đã tạo dựng mọi sự thật tốt đẹp, nhưng thực tế thường ngày lại cho thấy những giới hạn và bất toàn của thiên nhiên, những bất công và xấu xa trong xã hội ; và những con người gian ác. Niềm tin Kitô giáo giải thích như thế nào ? Những thắc mắc của ông Gióp về đau khổ và của thánh vịnh gia về những người gian ác (Tv 72,3-12) chỉ được giải đáp nơi Đức Giêsu Kitô, Con Một Thiên Chúa, nhờ Người, "mầu nhiệm của sự gian ác" (2Tx 2,7) được sáng tỏ dưới ánh sáng của "mầu nhiệm của đạo thánh" (1Tm 3,16). Khi từ cõi chết sống lại, Đức Giêsu Kitô đã đổ tràn ân sủng trên thế giới tội lỗi (Rm 5,21) bởi vì Người là Đấng duy nhất chiến thắng sự ác (Lc 11,21-22 ; Ga 16,11 ; 1Ga 3,8) "Nhờ Chúa Kitô và trong Chúa Kitô, bí ẩn về đau khổ và sự chết được sáng tỏ, bí ẩn đè bẹp chúng ta nếu chúng ta không biết đến Phúc Âm" (MV 22). Tội lỗi và ân sủng. Ngày nay người ta có khuynh hướng giải thích tội lỗi như là sự thiếu trưởng thành, sự yếu đuối của tâm hồn, là sự lầm lẫn, là hậu quả đương nhiên của hoàn cảnh xã hội. Thật ra con người phạm tội, vì đã lạm dụng tự do Chúa ban, mà không vâng phục lệnh truyền của Người, từ chối tình yêu của Người. Tội lỗi là từ khước Thiên Chúa và đặt mình đối nghịch với Người. Nên muốn hiểu tội lỗi là gì, cần phải đặt tội lỗi trong tương quan với Thiên Chúa - Đặt mình trước mặt Thiên Chúa, con người không những nhận ra tội lỗi của mình, mà còn cảm nhận được lòng nhân từ hay tha thứ của Thiên Chúa, để quay về với Người và dấn bước theo Người (Lc 5,8-11 ; Ga 8,11). Tội lỗi đã xuất hiện từ buổi đầu của lịch sử nhân loại. "Được thiết lập trong sự công chính, tuy nhiên ngay từ đầu lịch sử, con người nghe theo Thần Dữ nên đã lạm dụng tự do của mình khi nổi dậy chống lại Thiên Chúa và muốn đạt tới cứu cánh của mình ngoài Thiên Chúa" (MV 13). Sách Sáng Thế (3,1-15) đã nói đến việc sa ngã của con người đầu tiên, nhưng ý nghĩa sâu xa của câu chuyện sa ngã chỉ được bày tỏ trọn vẹn nơi Chúa Kitô, Đấng đã chết và sống lại, để trở thành Cứu Chúa duy nhất của toàn thể nhân loại (Cv 4,12). Tin nhận Chúa Kitô, Adam mới, là nguồn mạch ân sủng của sự sống, thì sẽ nhận ra Adam là nguồn mạch tội lỗi đưa đến cái chết. Ma quỷ gây ra tội lỗi. Con người phạm tội, nhưng con người không phải là tạo vật đầu tiên chống lại Thiên Chúa. Con người phạm tội, vì đã nghe theo lời dụ dỗ của ma quỷ, "vì ma quỷ phạm tội từ lúc khởi đầu" (1Ga 3,8), ma quỷ có tên là Xa-tan. Xa-tan cùng với đồng bọn đều là những thiên thần tốt lành được Thiên Chúa dựng nên tốt lành, nhưng đã trở nên xấu xa, vì đã chống lại Thiên Chúa cách dứt khoát. Họ đã từ chối Thiên Chúa cách vĩnh viễn và trở thành thù địch với con người, nhằm mê hoặc con người vào con đường xấu xa giống như họ. Nhưng Thiên Chúa đã sai Con Một xuống thế làm người, để trợ giúp và giải thoát con người khỏi áp lực của ma quỷ. "Sở dĩ Con Thiên Chúa xuất hiện là để phá hủy công việc của ma quỷ" (1Ga 3,8). Thiên Chúa cho phép ma quỷ hoành hành trên thế giới cho đến ngày tận thế, nhưng những ai tin vào Đức Giêsu Kitô đều chiến thắng ma quỷ (1Ga 5,5). Đức Giêsu Kitô không những mạnh hơn ma quỷ (x.Lc 11,22) thống trị chúng (qua các lần trừ quỷ mà Tin Mừng kể lại), nhưng nhờ cái chết và cuộc sống lại của Người, ma quỷ đã bị đánh bại (x.Ga 12,31) để chờ ngày "Thiên Chúa đặt mọi thù địch dưới chân Ngài" (1Gr 15, 25; x.Tv 110, 1). Tội Nguyên Tổ 1. Con người bị thử thách và sa ngã Được dựng nên cách Thánh Thiện để sống hòa hợp với Thiên Chúa và với vạn vật, con người đã lạm dụng tự do để làm theo ý mình mà không theo ý Chúa, muốn coi mình hơn Thiên Chúa mà mất tin tưởng và không vâng phục Người. Đó là tội đầu tiên của con người. Tội đầu tiên này sẽ lôi kéo theo muôn vàn tội lỗi của mọi người qua các thời đại. Khi phạm tội từ bỏ Thiên Chúa. Đấng duy nhất tốt lành (x.Mt 19,17), con người tự ý nhận lấy mọi hậu quả xấu xa của tội lỗi. 2. Hậu quả tội nguyên tổ. Sau khi sa ngã, ông bà nguyên tổ mất quân bình khi thấy mình trần truồng (x.St 3,7), chạy trốn Thiên Chúa (x.St 3,8), tương quan giữa hai người không còn bình đẳng hòa hợp như trước (x.St 3,16), đất đai đã chống lại con người, và con người phải vất vả cực nhọc mới chinh phục được thiên nhiên. Cuối cùng, thì con người phải trở về bụi đất (x.St 3,18-19). Như vậy, hậu quả đầu tiên của tội nguyên tổ là mất tình nghĩa với Thiên Chúa (ân sủng của sự thánh thiện nguyên thủy). Đánh mất sự hòa hợp với Thiên Chúa, con người bị chia rẽ và xáo trộn nơi chính bản thân mình, mất hòa bình với người khác và xung khắc với vạn vật. Và hậu quả bi đát nhất là : con người phải chết. Cái chết đã đến với con người, nên làm người ai cũng phải chết (x.ra 5,12). Và từ tội đầu tiên này, tội lỗi đã lan tràn và thống trị khắp thế giới. "Nhìn sâu tận đáy lòng mình, con người cũng khám phá ra rằng, mình đã hướng về sự dữ và đã ngụp lặn trong muôn vàn sự dữ là những điều không thể xuất phát từ Đấng Tạo Hóa tốt lành của mình. Nhiều khi từ chối không nhìn nhận Thiên Chúa như nguyên ủy của mình, con người cũng đã phá đổ trật tự phải có để đạt tới cùng đích của mình, và đồng thời phá vỡ mọi hòa hợp nơi chính bản thân cũng như đối với những người khác và với mọi loài thọ tạo (MV 13). 3. Tội nguyên tổ truyền lại cho con cháu. Con người đầu tiên là Adam đã phạm tội mất tình nghĩa với Thiên Chúa, nên tất cả con cháu thuộc dòng giống loài người, đều sinh ra trong tình trạng tội lỗi của Adam. Bởi vì Adam đã nhận được ơn Thánh thiện và công chính ban đầu, không chỉ cho một mình ông, nhưng cho toàn thể nhân loại. Vậy một khi Adam đã đánh mất đặc ân đó vì tội mình, thì nhân loại sinh ra từ Adam cũng không còn được ở trong tình nghĩa hòa hợp với Thiên Chúa. Tình trạng mất ơn nghĩa với Chúa của mọi người sinh ra ở đời này, ta gọi là tội tổ tông truyền. "Vì một người duy nhất, mà tội lỗi đã xâm nhập trần gian, và tội lỗi gây nên sự chết ; như thế, sự chết đã lan tràn tới mọi người, bởi vì mọi người đã phạm tội" (Rm 5,12). Nhưng nếu tội lỗi và sự chết xâm nhập mọi người, thì ân sủng và sự sống của Chúa Kitô cũng tràn ngập tất cả nhân loại. ( Rm 5,18 ) 4. Bản tính con người bị tổn thương do tội lỗi. Chính vì mọi người sinh ra trong tình trạng mất ơn Thánh Thiện và Công Chính ban đầu, nên bản tính con người đã bị tổn thương, suy yếu và hướng về điều xấu. Ơn cứu chuộc của Chúa Kitô ban qua Thánh Tẩy, xóa sạch tội lỗi, đưa ta vào trong ơn nghĩa thân tình với Chúa, nhưng tính suy yếu và nghiêng chiều về sự ác vẫn tồn tại nơi bản tính con người. Như vậy, và con người phải luôn sẵn sàng chiến đấu để thắng vượt tội lỗi. Lời Hứa Ban Ơn Cứu Độ Thiên Chúa là Đấng toàn Năng và trung tín, không những đã không bỏ rơi con người sau khi sa ngã, nhưng còn tìm đến với con người (x.St 3,8), và kêu gọi họ tin tưởng là sự ác sẽ bị đánh bại (x.St 3,15) và con người sẽ lại được phục hồi phẩm giá. Chính Chúa Kitô Cứu Thế đã phục hồi phẩm giá con người cách kÿ diệu hơn cả phẩm giá lúc được sáng tạo (x. Lời nguyện nhập lễ, Lễ giáng Sinh ngày). Thật ra tội lỗi con người không làm hỏng chương trình của Thiên Chúa, mà là cơ hội Thiên Chúa biểu lộ tình thương xót nhân từ không biết mệt mỏi của Người, hầu đưa toàn thể nhân loại đạt tới cùng đích của mình là : sự sống muôn đời, "Thế Giới ấy, người Kitô hữu tin là đã được tình yêu của Đấng Tạo Hóa tác thành và bảo trì ; thế Giới ấy đã rơi vào ách nô lệ tội lỗi, nhưng nhờ Chúa Kitô chịu đóng đinh và sống lại mà bẻ gãy uy quyền của Thần dữ, đã được giải thoát để thay hình đổi dạng theo dự định của Thiên Chúa mà tiến tới sự viên mãn" (MV 12). Chiến thắng tội lỗi do Chúa Kitô thực hiện, đã mang lại cho chúng ta những lợi ích lớn lao hơn là những lợi ích mà tội đã làm mất đi. "Ở đâu tội lỗi đã lan tràn, ở đó ân sủng càng chứa chan gấp bội" (Rm 5,20) - "Ôi ! Tội đã hóa thành hồng phúc, nhờ tội, chúng con mới có được Đấng Cứu Tinh cao cả dường này" (Bản công bố Tin Mừng Phục Sinh, canh thức vượt qua). Hệ Luận Mục Vụ "Có sự phân rẽ trong chính con người, từ đó sinh ra bao nhiêu là bất hòa lớn lao trong xã hội" (MV 10) "Mọi sinh hoạt hằng ngày của con người đang lâm nguy vì kiêu ngạo, và lòng ích kỷ thái quá, cần được thanh tẩy và hoàn thiện nhờ thập giá và sự sống lại của Chúa Kitô" (MV 37). Như vậy tất cả mọi người đều chịu ảnh hưởng xấu xa của tội lỗi. Cuộc sống con người trên trần gian trở thành cuộc chiến đấu chống lại sự ác dưới mọi hình thức, nơi bản thân cũng như nơi xã hội, để đạt tới sự tốt lành như Thiên Chúa muốn. Trong cuộc chiến khốc liệt và kéo dài suốt đời này, luôn có Chúa Kitô đồng hành và trợ giúp con người. "Vì chúng ta chiến đấu, không phải với phàm nhân, nhưng là với những quyền lực thần thiêng, với những bậc thống trị thế giới tối tăm này, với những thần linh quái ác chốn trời cao" (Ep 6,12). Nên chúng ta "hãy mang toàn bộ binh giáp vũ khí của Thiên Chúa để có thể đứng vững trước những mưu chước của ma quỉ" (Ep 6,11). Bài 11 ĐỨC GIÊSU KITÔ, CON MỘT THIÊN CHÚA (x. SGLC từ 0422 đến 0451) Đức Giêsu lại hỏi: "Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?" Ông Simon Phêrô thưa: "Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống" (Mt 16,15-16). "Ngôi lời đã trở nên người phàm... là Con Một đầy tràn ân sủng và sự thật" (Ga 1,14). "Và này đây Bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giêsu" ( Lc 1,31). ĐỨC GIÊSU LÀ ĐẤNG KITÔ Sinh ra làm người ai cũng có một tên gọi. Tên gọi chỉ tính cá biệt của mỗi người. Nhưng trong kinh Thánh, tên gọi thường bao hàm một sứ mạng. Trong ngày truyền tin, Sứ Thần loan báo cho Đức Maria: "Này Bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai và đặt tên là Giêsu" (Lc 1,31). Trong ngôn ngữ Do Thái, từ Giêsu có nghĩa là: "Thiên Chúa Cứu Độ" như lời Thiên Thần nói với Giuse: "Ông phải đặt tên cho con trẻ là Giêsu, vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ" (Mt 1,21). Với biến cố Phục Sinh, danh Thánh Đức Giêsu được tôn vinh và tỏ ra quyền năng cao cả trên hết "muôn ngàn danh hiệu" (x.Pl 2,9-10). Danh Thánh Đức Giêsu còn được đặt ở trung điểm của lời cầu nguyện Kitô Giáo. Vì thế ta xin bất cứ điều gì, cùng Thiên Chúa Cha cũng phải nhân danh Chúa Kitô (x.Ga 15,16). Đức Giêsu cũng được gọi là Đấng Kitô, Kitô là từ Hy lạp bởi từ Do Thái là Messia, nghĩa là Đấng được xức dầu. Theo truyền thống Do Thái, những người được Thiên Chúa tuyển chọn, trao sứ mạng như các Vua (x.IV 1,39), Tư Tế (x.Xh 29,7; Lv 8,12), Ngôn Sứ (x.IV 19,16) đều được xức dầu nhân danh Thiên Chúa, và Đức Giêsu đã xác nhận lời tuyên xưng của Phêrô: "Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống" (Mt 16,16). Ngài là Đấng mà ngay từ đầu "Chúa Cha đã thánh hiến và sai đến thế gian" (Ga 10,36). Và khi Gioan làm phép rửa cho Ngài "Thiên Chúa đã dùng Thánh Thần và quyền năng mà xức dầu tấn phong Người" (Cv 10, 38). Sau này chính Đức Giêsu đã công khai tuyên bố sứ mạng của mình mà ngôn sứ Isaia đã loan báo: Ngài được Thần khí Thiên Chúa xức dầu để trở thành Ngôn sứ, Tư Tế, Vương Đế đích thực của Thiên Chúa: "Thần khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi... Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh" (Lc 4,18-21). Ý nghĩa đích thực và hoàn hảo của Danh Kitô tỏ hiện sau khi Đức Giêsu từ cõi chết sống lại như Phêrô tuyên xưng: "Vậy toàn thể nhà Israel phải biết chắc điều này: Đức Giêsu mà anh em đã treo trên thập giá Thiên Chúa đã đặt Người làm Đức Chúa và làm Đấng Kitô" (Cv 2,36). ĐỨC GIÊSU "CON MỘT THIÊN CHÚA" Đức Giêsu là Con Một duy nhất của Thiên Chúa, mà Hội Thánh hằng tuyên xưng: Tôi tin kính một Đức Giêsu Kitô Con một Thiên Chúa (Kinh Tin Kính). Chính Phêrô cũng tuyên xưng Đức Giêsu là: "Đấng Kitô con Thiên Chúa hằng sống" (Mt 16,16) và Đức Giêsu cho Phêrô biết đó là mặc khải từ Cha Ngài. (x.Mt 16,17) Sau khi trở lại, Phaolô cũng tuyên xưng và rao giảng Đức Giêsu là Con Thiên Chúa (x.Gl 1,15-16; Cv 9,20). Chính Đức Giêsu đã xác định lại lời tuyên xưng của các Tông Đồ khi người ta tố cáo Ngài: "Ông là con Thiên Chúa sao?" Đức Giêsu đã trả lời: "Đúng như các ông nói chính Tôi đây" (Lc 22,70) và là "Con một của Thiên Chúa" (Ga 3,16). Đàng khác, khi chịu phép rửa ở sông Giodan, và biến mình trên núi Tabo, Chúa Cha đã long trọng tuyên bố Đức Giêsu là "Con yêu dấu". Cuối cùng, viên bách quản cũng thốt lên khi nhìn Đức Giêsu trên thập giá: "Quả thật, người này là con Thiên Chúa" (Mc 15,39). Nhưng tước hiệu là "Con Thiên Chúa" của Đức Giêsu vượt trên tước hiệu "Con Thiên Chúa" mà Cựu Ước gán cho các Thiên Thần, cho dân Ít-ra-en, cho các vua Ít-ra-en. Tước hiệu "Con Thiên Chúa" trong Cựu Ước chỉ muốn nói đến sự liên hệ mật thiết của Thiên Chúa với các tạo vật của Ngài; trái lại, Đức Giêsu là "Con Thiên Chúa" vì Ngài "Biết Cha Ngài" (x.Mt 11,27) đồng bản tính với Chúa Cha, Ngài là Thiên Chúa bởi Thiên Chúa... (Kinh Tin Kính). Vì thế, Đức Giêsu đã phân biệt rõ ràng: "Cha của Thầy cũng là Cha của Anh em" (Ga 20,17). ĐỨC GIÊSU LÀ CHÚA Để gia nhập Hội Thánh, mỗi người chúng ta đều tuyên xưng Đức Giêsu là Chúa: "Nhân danh Chúa Cha, Chúa con và Chúa Thánh Thần... ". Người tín hữu cũng hằng tuyên xưng Đức Giêsu: "là Thiên Chúa bởi Thiên Chúa... Thiên Chúa thật bởi Thiên Chúa thật... đồng bản tính với Đức Chúa Cha..." (Kinh Tin Kính). Suốt cuộc đời công khai, Đức Giêsu chứng tỏ uy quyền của Ngài đối với thiên nhiên, như truyền cho sóng gió im lặng "Người thức dậy, ngăm đe sóng gió, sóng gió liền ngừng và biển lặng ngay" (Lc 8,24). Cả những người mắc bệnh hiểm nghèo, cũng được Ngài chữa trị, chỉ một lời phán ra, ma quỉ đều run sợ, kẻ chết được sống lại và nhất là kẻ có tội được tha. Cuối cùng ta thấy chính Đức Giêsu công khai nhận Ngài là Chúa khi Ngài dạy dỗ các Tông Đồ, "Anh em gọi Thầy là Thầy là Chúa, điều đó phải lắm, vì quả thật, Thầy là Thầy là Chúa" (Ga 13,13). Sau khi Phục Sinh, Đức Giêsu hiện ra với các Tông Đồ và Tông Đồ Tôma đã tuyên xưng: "Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con" (Ga 20,28). Khi cử hành nghi thức phụng vụ, Hội Thánh luôn tuyên xưng "Chúa ở cùng anh chị em" hoặc "Nhờ Chúa Kitô, Chúa chúng con". SỐNG VỚI CHÚA KITÔ Như vậy Đức Giêsu, chẳng những là Chúa Kitô, Con Một Thiên Chúa, nhưng cũng là Chúa, là Thiên Chúa, đồng bản tính với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần. Do đó, chúng ta hết lòng tôn thờ, yêu mến tin tưởng và nghe lời Đức Giêsu như Chúa Cha đã truyền dạy: "hãy vâng nghe lời Người" (Lc 9,35), phải siêng năng đọc Thánh Kinh để biết và yêu mến Đức Giêsu vì "không biết Thánh Kinh, tức là không biết Chúa Kitô" (Thánh Giê-rô-ni-mô). Để yêu mến Đức Giêsu, hãy giữ lời Ngài: "Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy" và nhất là khi ta yêu thương nhau. Đặc biệt yêu thương kẻ thù là dấu chứng cụ thể ta yêu mến Thiên Chúa: "Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em con hãy yêu thương nhau" (Ga 13,34) và "hãy yêu kẻ thù, và làm ơn cho kẻ ghét anh em" (Lc 6,27). Bài 12 CON THIÊN CHÚA LÀM NGƯỜI (x. SGLC từ 0456 đến 0507). "Khi thời gian tới hồi viên mãn, Thiên Chúa đã sai Con mình tới, sinh làm con một người đàn bà, và sống dưới Lề Luật để chuộc những ai sống dưới lề luật, hầu chúng ta nhận được ơn làm nghĩa tử" (Gl 4,4-5). Con Thiên Chúa chính là Đức Giêsu Kitô. "Vì loài người chúng tôi và để cứu rỗi chúng tôi, Người đã từ trời xuống thế. Bởi phép Chúa Thánh Thần, Người đã nhập thể trong lòng Trinh Nữ Maria và đã làm người" (Kinh Tin Kính). Tại sao Con Thiên Chúa làm người? Ở trên trái đất nầy con người là "Nhân linh ư vạn vật" nhưng lại đau khổ hơn hết mọi loài. Chỉ cần nhìn quanh thế giới hôm nay hoặc, xem lại lịch sử loài người cũng thấy rõ sự thật. Đó không phải do Thiên Chúa, vì Người đã sáng tạo mọi sự đều tốt đẹp, nhưng do chính con người đã sử dụng trí tuệ và tự do cách sai lầm để bất phục Thiên Chúa, và chuốc lấy muôn vàn thất bại trên đường hạnh phúc của mình. Dầu Thiên Chúa có thể bỏ mặc cho họ phải hư đốn vì tội của họ, nhưng Người là Cha yêu thương và toàn năng, không thể làm ngơ trước nỗi khổ của họ, nên Người phải ra tay cứu độ. Khi thời gian tới hồi viên mãn, Thiên Chúa sai Con của Người xuống thế làm người: để giao hòa chúng ta với Thiên Chúa: "Chính Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta và sai Con của Người đến làm của lễ đền tội cho chúng ta" (1 Ga 4,10). để chúng ta nhận biết tình yêu của Thiên Chúa: "Tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta được biểu lộ như thế nầy: Thiên Chúa đã sai Con Một đến thế gian, để nhờ Con Một của Người mà chúng ta được sống". (1 Ga 4,9). để Người trở nên khuôn mẫu thánh thiện cho chúng ta: "Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em" (Ga 15,12) "Thầy đã nêu gương cho anh em để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em" (Ga 13,15). để chúng ta được "thông phần bản tính Thiên Chúa" (2 Pr 1,4) "nhờ sự hiệp thông với Người" (Thánh Irênê). Bởi phép Chúa Thánh Thần mà Người xuống Thai. Biến cố truyền tin cho Đức Maria (x.Lc. 1,16-38) cho ta biết "thời gian tới hồi viên mãn". Chúa Thánh Thần là "Đấng ban sự sống" (Kinh Tin Kính) được sai đi để thánh hóa cung lòng Đức Maria và làm cho bà thụ thai Con Thiên Chúa. Con Thiên Chúa xuống thế làm người trong lòng Đức Trinh Nữ Maria, chính là Chúa Kitô, Đấng được xức dầu bởi Chúa Thánh Thần ngay khi bắt đầu làm người. Và sau nầy trong suốt cuộc đời, Đức Giêsu Kitô dần dần chứng tỏ: "Thiên Chúa đã dùng Thánh Thần và quyền năng mà xức dầu tấn phong Người (Cv 10,38). Sinh bởi Đức Maria Đồng Trinh. Biến cố truyền tin cho Đức Maria cũng cho biết Thiên Chúa đã muốn loài người tự nguyện hợp tác với công trình cứu độ của Người. Người đã tuyển chọn một thiếu nữ Ít-ra-en ở làng Na-gia-rét, thuộc xứ Ga-li-lê "đã đính hôn với một người tên là Giuse thuộc nhà Đavít, trinh nữ ấy tên là Maria" (Lc. 1,26-27). Đức Maria đã được Thiên Chúa "ban cho nhiều ơn cân xứng với một vai trò cao cả như thế" (Lg 56). Tân Ước gọi Đức Maria là "Đấng đầy ân sủng" (Lc 1,28). Và Hội Thánh công bố rằng: "Đức Trinh Nữ Maria ngay từ lúc mới được thụ thai, nhờ ân sủng và ơn huệ đặc biệt của Thiên Chúa toàn năng, và dựa vào công nghiệp của Đức Giêsu Kitô cứu độ loài người, đã được gìn giữ toàn vẹn, không lây nhiễm chút vết nhơ nào của tội nguyên tổ" (DS-2803), và cũng tinh tuyền không một tội riêng nào trong suốt cuộc đời. Người là "Đấng Vô nhiễm nguyên tội". Khi Đức Maria thưa lời "xin vâng". Người đã trở thành Mẹ Đức Giêsu để thuộc quyền Con và cùng với Con phục vụ mầu nhiệm cứu độ (x.GH 56). Nhưng Đức Giêsu, Con của Người lại chính là Con Chúa Cha, là Ngôi Hai trong Ba Ngôi Thiên Chúa, nên Hội Thánh tuyên xưng Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa. Sau hết, vì Đức Maria thụ thai Đức Giêsu bởi phép Chúa Thánh Thần, nên dầu đã sinh Đức Giêsu, Đức Maria được Hội Thánh tuyên xưng là Đấng trinh khiết vẹn toàn (x.GH 57). Như thế Đức Maria vừa là Mẹ vừa là Trinh Nữ vẹn toàn, theo ý định của Thiên Chúa Quan Phòng, Người "đi tiên phong, tỏ ra là một người mẹ và một trinh nữ gương mẫu tuyệt vời và hiếm có của Hội Thánh" (GH 63).   Đức Giêsu là Thiên Chúa thật và là người thật. Việc Con Thiên Chúa làm người không có nghĩa là nơi Đức Giêsu có một phần là Thiên Chúa - một phần là người; cũng không phải là hai yếu tố Thiên Chúa và loài người hòa trộn lẫn nhau nơi Người. Đức Giêsu đã làm người thật mà vẫn là Thiên Chúa thật. Chân lý nầy Hội Thánh luôn phải bảo vệ và làm sáng tỏ trong những thế kỷ đầu tiên để đối phó với nhiều lạc giáo. Công đồng Nicée (325) tuyên xưng Đức Giêsu "đồng bản tính với Đức Chúa Cha" chứ không phải có bản tính khác với Chúa Cha, Công đồng Ephêsô (431) tuyên bố "Ngôi Hai Thiên Chúa đảm nhận bản tính nhân loại trong ngôi vị của Người" chứ không phải Người có hai ngôi vị. Công đồng Chalcédonie (451) tuyên xưng "Chúa Kitô có bản tính Thiên Chúa và bản tính nhân loại, cả hai không lẫn lộn nhưng hiệp nhất trong một ngôi vị". Công đồng Vatican II xác định rằng: "nơi Chúa Kitô bản tính nhân loại được đảm nhận (mặc lấy) chứ không bị tiêu diệt... Người làm việc với bàn tay con người, suy nghĩ bằng trí tuệ con người, hành động với ý chí con người, yêu mến bằng trái tim con người... thực sự trở nên một người giữa chúng ta, giống chúng ta mọi sự, ngoại trừ tội lỗi" (MV 22). Như vậy Đức Giêsu là Thiên Chúa thật và là người thật. Thân xác, trí tuệ và ý chí con người của Người cũng phải "lớn lên, thêm vững mạnh, đầy khôn ngoan" (Lc 2,40) vì Người đã tự nguyện "trở nên giống phàm nhân" (Pl 2,7). Tuy nhiên, chúng lại hoàn toàn hòa hợp và tuân phục trí tuệ và ý chí của Thiên Chúa. Đức Giêsu yêu thương tất cả chúng ta bằng trái tim con người. Vì thế, Hội Thánh coi Thánh Tâm Đức Giêsu, bị đâm thủng vì tội lỗi chúng ta để cứu độ chúng ta, "như dấu chỉ và biểu tượng tuyệt vời của tình yêu Người đối với Chúa Cha và với tất cả chúng ta" (Đức Piô XII). Con Thiên Chúa làm người và con người hôm nay. Nhiều người hôm nay do ảnh hưởng của tiến bộ khoa học kỹ thuật, và do lối sống hưởng thụ tiện nghi vật chất, đã bị cám dỗ như nguyên tổ xưa để tự hào tự mãn, muốn "đạt tới cùng đích đời mình ngoài Thiên Chúa" (MV 13), gạt bỏ Thiên Chúa để mình làm chủ tất cả... Nhưng đa số người Việt Nam theo truyền thống Á đông vẫn luôn quý mến sự hòa hợp giữa Trời Đất Người (Thiên Địa Nhân), biết vâng mệnh Trời, nhân ái với mọi người, và trân trọng thiên nhiên, để mong được an hòa hạnh phúc. Đây là truyền thống rất tốt đẹp và thuận lợi, giúp ta dễ chấp nhận hơn việc "Con Thiên Chúa làm người để hiệp thông với con người và vạn vật". Việc hiệp thông của Người mang một ý nghĩa sâu sắc, và là lời mời gọi Kitô hữu Việt Nam hôm nay: Ý nghĩa sâu sắc. Con Thiên Chúa nhập thể làm người để thể hiện cuộc sống hiệp thông giữa Trời - Đất - Người, làm cho Trời - Đất - Người hòa giải hòa hợp với nhau, nhưng vẫn trân trọng phẩm giá của mỗi thành phần. Đó là để phục hồi phẩm giá đích thực và cao quý mà nguyên tổ đã làm hư mất. Người đã mở ra con đường cứu độ là mời gọi ta trở nên "đồng hình đồng dạng" với Người, để có thể chu toàn lề luật yêu thương mới của Người (MV 22). "Con Thiên Chúa làm người ta được hiệp thông với Người mà trở nên con Thiên Chúa". (thánh Irênê). Lời mời gọi Kitô hữu Việt Nam hôm nay. Con Thiên Chúa làm người mời gọi Kitô hữu mang tên của Người, hãy tiếp nối công trình nhập thể cứu độ của Người bằng cách "trở nên đồng hình đồng dạng với Người" (Rm 8,29), noi gương Người hội nhập vào dân tộc mình để phục vụ; đồng hành với đồng bào để xóa dốt giảm nghèo, nhất là hội nhập vào truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc để có thể biểu lộ đức tin và loan báo Tin Mừng cứu độ của Người cho thích nghi với dân tộc hơn (Thư chung của HĐGM Việt Nam 1980). Bài 13 CUỘC SỐNG TRẦN THẾ CỦA ĐỨC GIÊSU (x. SGLC từ 0512 đến 0560). "Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta" (Ga 1,14). "Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa bỏ tội trần gian" (Ga 1,29). Kinh Tin Kính chỉ nói đến những mầu nhiệm, liên quan đến đời sống Chúa Kitô về nhập thể (thụ thai, giáng sinh) và vượt qua (khổ nạn, thập giá, chết, mai táng... sống lại, lên trời). Không nói gì rõ ràng về những mầu nhiệm trong đời ẩn dật và công khai của Chúa, Nhưng những tín điều liên quan đến nhập thể và vượt qua của Đức Giêsu lại soi sáng toàn bộ cuộc sống trần thế của Người. Tất cả những gì Đức Giêsu đã làm và dạy, từ khởi đầu cho đến ngày được đưa về trời cần phải được nhìn dưới ánh sáng của những mầu nhiệm giáng sinh và vượt qua. Tất cả cuộc sống của Chúa Kitô là mầu nhiệm. Nhiều điều người ta tò mò muốn biết về Đức Giêsu thì Tin Mừng không nói. Hầu như cuộc sống ở Nazareth chẳng được nói đến, và ngay cả phần lớn cuộc sống công khai cũng không được kể lại. Bởi vì những gì được viết lại trong Tin Mừng chỉ là "để anh em tin rằng Đức Giêsu là Đấng Kitô. Con Thiên Chúa và để anh em tin mà được sự sống nhờ danh Người" (Ga 20,31). Tin Mừng được viết ra do những người có niềm tin đầu tiên vào Đức Giêsu. Họ muốn làm cho những người khác nhận ra những dấu hiệu của mầu nhiệm. Qua những cử chỉ của Đức Giêsu, dấu lạ và lời nói của Người, Người đã tỏ ra rằng "nơi Người, tất cả sự viên mãn của thần tính hiện diện cách cụ thể" (Cl 2,9). Tất cả cuộc sống của Chúa Kitô là để mặc khải Chúa Cha. Tất cả cuộc sống của Chúa Kitô là để cứu chuộc con người. Và hiện nay Ngài hằng "đứng trước mặt Thiên Chúa chuyển cầu cho chúng ta" (Dt 9,24).   Đời thơ ấu - ẩn dật. Thơ ấu. Giáng sinh: là biến cố vô cùng trọng đại nên Thiên Chúa sửa soạn rất kỹ. Ngài đã qui hướng những nghi thức, hy lễ, hình ảnh và biểu trưng của Giao Ước cũ về Chúa Kitô: loan báo qua các ngôn sứ và khơi dậy nơi các dân ngoại niềm mong đợi nào đó. Sau cùng "vị ngôn sứ của Đấng Tối Cao" (Lc 1,76) được sai đến trực tiếp dọn đường cho Đấng Cứu Thế. Chính ông sẽ chỉ cho mọi người thấy "Đấng xóa bỏ tội trần gian" (Ga 1,29). Khi cử hành Phụng Vụ Mùa Vọng, Hội Thánh hiện tại hóa niềm mong đợi sống động Đấng Cứu Thế. Trong khi thông dự, vào sự chuẩn bị lâu dài cho lần đến đầu tiên của Đấng Cứu Thế, người tín hữu cũng sống ước vọng nóng bỏng hướng tới lần ngự đến thứ hai của Người. Đức Giêsu sinh hạ khiêm tốn trong máng chiên lừa, trong một gia đình nghèo và những mục đồng đơn sơ là những chứng nhân đầu tiên của biến cố nầy. Chính trong cảnh nghèo hèn nầy, vinh quang trời cao đã tỏ hiện. Hội Thánh không ngừng ca tụng vinh quang của đêm nầy: Hôm nay Trinh Nữ sinh hạ Đấng bất diệt Và trái đất dâng một hang động cho Đấng không thể với tới. Thiên Thần và mục đồng ca tụng Người Các đạo sĩ theo sao lạ tiến tới Ngài đã sinh ra vì chúng tôi Thưa Hài Nhi, Thiên Chúa vĩnh cửu. Trong tương quan với Thiên Chúa, trở nên trẻ thơ là điều kiện để vào Nước Trời. Phải hạ mình xuống, nên bé nhỏ, nhưng phải sinh ra từ trời cao, từ Thiên Chúa, để trở nên con Thiên Chúa. Mầu nhiệm Giáng Sinh hoàn thành nơi chúng ta khi Chúa Kitô thành hình nơi chúng ta, Giáng Sinh là mầu nhiệm trao đổi lạ lùng. Trong đời thơ ấu của Chúa có những biến cố đáng ghi nhớ: a) Cắt bì vào ngày thứ tám sau khi sinh. Biến cố nầy là một tuyên cáo việc Ngài sáp nhập vào dòng dõi Abraham, vào dân của Giao Ước và cũng là dấu chỉ phục tùng lề luật. b) Những nhà thông thái đến kính viếng. Là đại biểu của dân ngoại, họ là hoa quả đầu mùa của các dân tộc, họ đón nhận Tin Mừng qua việc nhập thể. Họ đã tìm được nơi Ít-ra-en vị vua của mọi dân tộc. c) Dâng Chúa vào đền thờ. Chứng tỏ Ngài là con trai đầu lòng thuộc về Thiên Chúa. Simêon và Anna tượng trưng cho niềm mong đợi Ít-ra-en đã đến gặp gỡ Chúa. Ngài là ánh sáng muôn dân và vinh quang của Ít-ra-en. Qua Phụng vụ lễ Nến, Hội Thánh nhắc nhở các tín hữu đến gặp gỡ Chúa Kitô và thắp sáng niềm tin trong ánh sáng Chúa Kitô. d) Việc chạy trốn sang Ai Cập và việc tàn sát trẻ thơ của Hêrôđê. Không phải Người bất lực không bảo vệ được mình và các em nhỏ. Việc nầy tỏ rõ cuộc đời Ngài chỉ toàn nhận lấy bách hại và hất hủi. Một sự tranh đấu không ngừng giữa bóng tối và ánh sáng. Đời ẩn dật Phần lớn cuộc sống, Đức Giêsu đã chia sẻ điều kiện sống của đa số nhân loại: một cuộc đời bình thường không dáng vẻ rầm rộ bên ngoài, cuộc sống lao động bằng chân tay, một cuộc sống theo tôn giáo Do Thái tùng phục lề luật Thiên Chúa... Ngài hằng vâng phục cha mẹ Ngài, thi hành tuyệt hảo giới điều thứ tư. Đó là hình ảnh trần thế về lòng tùng phục hiếu thảo với Cha trên trời của Ngài. Sự vâng phục nầy là nền tảng cho việc vâng phục ý Cha ở Vườn Cây Dầu. Hằng ngày cộng tác lo việc cho cha mẹ chính là sửa soạn lo việc Cha trên trời, khởi đầu phục hồi những gì do sự bất phục của Ađam và làm tiêu hủy. Việc cậu bé Giêsu lúc 12 tuổi bị lạc và tìm lại được trong đền thờ đã làm vỡ tan sự im lặng dầy đặc trong những năm ẩn dật. Ngài muốn cho ta thoáng thấy mầu nhiệm việc dâng hiến trọn vẹn cho một sứ mạng phát sinh từ mối quan hệ thần linh của Ngài: "Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà của Cha con sao?" (Lc 2,49). Đời công khai. Khai mạc. Phép rửa: Đức Giêsu bắt đầu cuộc sống công khai bằng phép rửa của Gioan. Đức Giêsu cùng đến với nhiều người. Gioan ngập ngừng, nhưng Đức Giêsu yêu cầu Gioan cứ làm như lệ thường. Vì đây là dịp để Thiên Chúa tỏ mình ra cách trọng đại: Thánh Thần như hình Chim bồ câu đậu xuống trên Đức Giêsu, đồng thời có tiếng Chúa Cha phán: "Đây là Con yêu dấu của Ta" (Mt 3,17). Với phép rửa, Đức Giêsu chấp nhận và khai mạc sứ mạng của Người tôi tớ đau khổ. Ngài để cho mình bị kể vào số tội nhân. Ngài đã là "Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa bỏ tội trần gian" (Ga 1,29). Tiếng của Cha trả lời cho sự chấp nhận nầy và Thánh Thần ngự xuống. Lúc Chúa Giêsu chịu phép rửa, cửa trời mở ra và nước được thánh hóa, báo trước cuộc sáng tạo mới sắp bắt đầu. Chúa chịu cám dỗ Sau phép rửa, Đức Giêsu vào sa mạc ăn chay 40 đêm ngày. Kết thúc những ngày đó, Xa-tan đến cám dỗ Ngài ba lần. Biến cố nầy có một ý nghĩa cứu độ. Đức Giêsu là Ađam mới luôn trung thành trong khi Ađam cũ sa ngã. Đức Giêsu hoàn thành tốt đẹp ơn gọi của Ít-ra-en trái với những người khiêu khích Thiên Chúa suốt 40 năm trong sa mạc. Đức Giêsu là Đấng chiến thắng ma quỷ trong sa mạc. Chiến thắng báo trước chiến thắng cuộc tử nạn. Rao giảng Nước Thiên Chúa Loan báo: Sau khi Gioan bị bắt, Đức Giêsu trở về Galilêa, Ngài công bố Tin Mừng của Thiên Chúa đã đến bằng những lời nầy: "Thời kÿ đã mãn và triều đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng" (Mc 1, 15). Để chu toàn ý Chúa Cha. Chúa Kitô đã khai mạc Nước Thiên Chúa nơi trần gian. Chúa Cha tập họp con người xung quanh. Con của Người là Đức Giêsu Kitô. Cuộc tập họp nầy chính là cộng đoàn Hội Thánh mà Chúa Kitô là trung tâm. Tất cả mọi người được kêu gọi gia nhập Nước Trời. Muốn gia nhập phải tuân giữ lời Đức Giêsu dạy. Tuy thế Nước Thiên Chúa được dành ưu tiên cho: kẻ nghèo hèn, bé mọn và tội lỗi: "... để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn". (Lc 4,18). "... Cha đã dấu không cho bậc khôn ngoan thông thái... nhưng lại mặc khải cho những kẻ bé mọn". (Mt 11,25). "Tôi không đến để kêu gọi người công chính mà để kêu gọi người tội lỗi". (Mc 2,17). Tất cả đều phải tuân theo một điều kiện: Sám hối, nếu không, không thể gia nhập Nước Trời. Dấu chỉ Nước Trời. Đức Giêsu kèm theo lời giảng của Ngài nhiều dấu lạ điềm thiêng và những dấu chỉ (x. Cv 2,22) để chứng tỏ rằng Nước Thiên Chúa hiện diện nơi Ngài, làm chứng Ngài là Đấng Cứu Độ đã được báo trước, và cũng chứng tỏ Ngài được Chúa Cha sai đến. Những dấu chỉ đó mời gọi con người tin vào Ngài, tăng cường niềm tin vào Đấng thi hành công việc của Cha. Khi thi hành những dấu lạ để giải phóng con người khỏi những đói khát, bất công, bệnh tật, chết chóc, Đức Giêsu đã thực hiện những dấu chỉ thời cứu độ. Nhưng mục đích của Ngài không phải đến để tiêu diệt sự dữ trần gian mà là giải phóng con người khỏi nô lệ tội lỗi. Xây dựng Hội Thánh. Trong việc rao giảng Nước Trời, Đức Giêsu đã chọn nhóm Mười Hai và cho tham dự vào sứ mạng của Người: "Người sai các ông đi rao giảng Nước Thiên Chúa và chữa lành bệnh nhân" (Lc 9,2). Trong số đó có ông Phêrô giữ địa vị cao nhất: "Anh là Phêrô nghĩa là tảng đá, trên đá nầy Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy" (Mt 16,18). Ngài còn trao cho ông Chìa Khóa Nước Trời: "Thầy sẽ trao cho anh Chìa Khóa Nước Trời" (Mt 16,19). Quyền Chìa Khóa chỉ uy quyền để cai trị Nhà Thiên Chúa là Hội Thánh. Biến hình: Khung cảnh bề ngoài của việc biến hình nói lên tầm quan trọng của biến cố: có Ba Ngôi Thiên Chúa hiện diện, có các nhân vật đại diện Cựu và Tân Ước, và toàn thể thân xác Chúa Kitô tỏa sáng lạ lùng. Việc biến hình lại đi trước cuộc tử nạn, điều đó cho biết "để đi vào vinh quang" (Lc 24,26) Ngài phải qua thập giá tử nạn ở Giêrusalem. Việc biến hình cho chúng ta hưởng trước vinh quang của Chúa Kitô. Đấng sẽ "biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Người" (Pl 3,12). Nhưng cũng nhắc chúng ta rằng: chúng ta phải chịu nhiều gian khổ mới được vào Nước Thiên Chúa (x. Cv 14,22). Kết thúc: lên Giêrusalem. "Khi đã tới ngày Đức Giêsu được rước lên trời, Người nhất quyết đi lên Giêrusalem" (Lc 9,51). Hướng về Giêrusalem Người nói: "một ngôn sứ mà chết ngoài thành Giêrusalem thì không được" (Lc 13,33). Ngài tránh né tước vị vua trần thế mà người ta muốn trao tặng, nhưng Ngài lại long trọng bước vào thành của "Đa-vít tổ tiên Người" (Lc 1,37) và để cho người ta tung hô như là con vua Đa-vít, hoặc là "vua vinh quang" (Tv 24,7) cưởi lừa (Dcr 9,9) tiến vào thành của mình. Tiếng hô vang của dân chúng: "chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến" đã được Hội Thánh dùng lại trong Phụng Vụ Thánh Thể mở đầu việc tưởng nhớ cuộc Vượt Qua của Chúa. Việc tiến vào Giêrusalem của Đức Giêsu tỏ rõ việc thành tựu vương quốc mà vị Vua Cứu Thế sắp hoàn tất bằng cuộc Vượt Qua tử nạn và phục sinh. Phụng Vụ Chúa Nhật Lễ Lá của Hội Thánh khởi đầu một Tuần Thánh vĩ đại; giúp nhìn lại biến cố long trọng xưa kia và đồng thời cũng hướng về ngày vinh quang hiển thắng sẽ đến trong thời gian. Lắng nghe tiếng gọi. 1. Mỗi năm cử hành Phụng Vụ Mùa Vọng, Hội Thánh hiện tại hóa niềm mong đợi Đấng Cứu Thế. Sống lại tâm tình của Dân Chúa chờ mong Chúa đến lần thứ nhất, người tín hữu hâm nóng lại ước vọng nóng bỏng hướng đến cuộc giáng lâm lần thứ hai của Người. 2. Sự vâng phục cha mẹ trần thế của Đức Giêsu hoàn tất trọn hảo giới luật thứ tư. Nó là hình ảnh về sự vâng phục đối với Cha trên trời của Ngài và là tấm gương cho chúng ta. 3. Mỗi năm, bằng 40 ngày chay tịnh. Hội Thánh sống mầu nhiệm Vượt Qua của Đức Giêsu. Đây là dịp thuận lợi để người tín hữu canh tân cuộc sống đức tin của mình. Bài 14 CUỘC KHỔ NẠN CỦA CHÚA GIÊSU (x. SGLC từ 0571 đến 0628). "Từ lúc đó, Đức Giêsu Kitô bắt đầu tỏ cho các môn đệ biết: Người phải đi Giêrusalem, phải chịu nhiều đau khổ do các kÿ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết và ngày thứ ba sẽ sống lại" (Mt 16,21). Mầu nhiệm Vượt Qua (Tử nạn và Phục Sinh) của Đức Giêsu là đỉnh cao trong công trình cứu độ của Thiên Chúa "Nào Đấng Kitô lại chẳng phải chịu khổ hình như thế, rồi mới vào trong vinh quang của Người sao?" (Lc 24,26). Vì thế, người tín hữu Kitô phải quan tâm tìm hiểu và suy niệm về khung cảnh lịch sử đã dẫn đến cái chết của Đức Giêsu, vừa lắng nghe Lời Thiên Chúa để khám phá ý nghĩa của cái chết đó trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Tìm về khung cảnh lịch sử Cái chết của Đức Giêsu không phải là chuyện đột xuất, bất ngờ, nhưng là cao điểm của cuộc đối kháng kéo dài giữa Đức Giêsu và những thủ lãnh tôn giáo Do Thái đương thời: các thượng tế, tư tế, kinh sư và biệt phái. Có thể nhìn cuộc đối kháng đó ở ba khía cạnh:   Đối với Lề Luật. Trong bài giảng trên núi, Đức Giêsu đã tuyên bố "Anh em đừng tưởng Thầy đến để bãi bỏ luật Môsê hoặc lời các ngôn sứ. Thầy đến không phải là để bãi bỏ nhưng là để kiện toàn" (Mt 5,17). Ngài kiện toàn Lề Luật vì Ngài "giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền, chứ không như các kinh sư" (Mt 7,29), như Đấng có quyền ban bố lề luật chứ không chỉ là những điều khoản ghi khắc trên "bia đá" mà là "bia lòng". Chính vì thế, Ngài chống đối, phê phán và tố giác những hình thức nệ luật và coi đó như sự phản bội Ý muốn của Thiên Chúa (x.Mc 7,13). Nhưng cũng vì thế, mối quan hệ giữa Đức Giêsu và các thủ lãnh tôn giáo trở nên căng thẳng. Đối với đền thờ. Đức Giêsu dành cho Đền thánh Giêrusalem sự tôn kính đặc biệt. Nơi đó, Ngài đã được cha mẹ hiến dâng cho Thiên Chúa (x.Lc 2,22-31). Nơi đó, Ngài đã đến hằng năm, trong suốt thời gian sống tại Na-gia-rét (x.Lc 2,41). Cả cuộc sống rao giảng của Đức Giêsu cũng bắt nhịp với những lần hành hương về Đền Thánh. Hơn thế nữa, Ngài coi Đền thánh là nhà của CHA, nhà cầu nguyện. Vì thế, Ngài không thể chấp nhận sự lạm dụng đền thờ, biến đền thờ thành nơi buôn bán, hang trộm cướp (x.Mt 21,13). Trước khi bước vào cuộc tử nạn, Đức Giêsu đã loan báo đền thờ sẽ bị phá hủy, không còn hòn đá nào trên hòn đá nào (x.Mt 24,1-2) với ý nghĩa: Thời cuối cùng đã đến, nhưng lời tiên báo ấy đã bị xuyên tạc và trở thành lời tố cáo Đức Giêsu để lên án tử hình cho Ngài. (x.Mc 14,58). Đối với niềm tin vào Thiên Chúa và vào Đấng Cứu Độ. Trong khi rao giảng, Đức Giêsu loan báo Thiên Chúa là CHA, một vị Thiên Chúa khác xa với hình ảnh Thiên Chúa mà nhiều người đạo đức thời đó tin tưởng. Ngài loan báo Thiên Chúa bằng lời rao giảng và bằng cả cách sống của Ngài. Thay vì xa cách người tội lỗi và những kẻ bị xã hội bỏ rơi. Đức Giêsu lại tìm đến với họ để chia sẻ, nâng đỡ và an ủi như Ngài xác quyết "Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi sám hối ăn năn" (Lc 5,32). Hơn thế nữa, Đức Giêsu còn tỏ mình là Đấng Cứu Độ, đặc biệt khi Ngài thực thi quyền tha tội (Mc 2,5), quyền chỉ dành riêng cho một mình Thiên Chúa (Mc 2,7). Đối với các thủ lãnh tôn giáo đương thời, hành động đó của Đức Giêsu bị kết án là phạm thượng và sự đối kháng giữa Ngài với họ càng lúc càng gia tăng (Ga 5,18). Tóm lại, sự đối kháng giữa Đức Giêsu và các thủ lãnh tôn giáo đã gia tăng theo thời gian, cho đến cao điểm là bản án tử hình dành cho Ngài. Họ đã quyết định thủ tiêu Ngài vì "không hiểu biết" (Lc 23,34) vì "cứng lòng" và "bất tín" (Mc 3,5). Ý nghĩa cái chết của Đức Giêsu trong chương trình của Thiên Chúa. Vụ án Đức Giêsu. Vụ án Đức Giêsu là vụ án phức tạp về mặt lịch sử. Không phải tất cả mọi thành phần lãnh đạo tôn giáo đều nhất trí thủ tiêu Ngài. Cũng có "nhiều kẻ tin vào Ngài" (x.Ga 12,42). Tuy nhiên, những người cực đoan đã thắng: Biệt phái đe dọa trục xuất tất cả những ai theo Đức Giêsu (x.Ga 9,22). Caipha đưa ra lý do biện minh "Thà một người chết thay cho dân, còn hơn toàn dân bị tiêu diệt" (Ga 11,50). Cuối cùng, họ đã dùng bàn tay của đế quốc Rôma để sát hại Đức Giêsu dưới một tội danh chính trị (x.Ga 19,12). Tuy nhiên, người tín hữu Kitô không thể qui trách nhiệm sát hại Đức Giêsu cho toàn dân Do Thái, vì chính Đức Giêsu đã tha thứ cho họ (Lc 23,34) và Hội Thánh hôm nay xác quyết "Mặc dầu quyết định của chính quyền Do Thái và thuộc hạ đã dẫn đến cái chết của Chúa Kitô, nhưng không thể qui trách cách hàm hồ những tội ác đã phạm trong khi Đức Giêsu bị khổ nạn cho hết mọi người Do Thái thời đó, cũng như người Do Thái hôm nay" (NK 4). Đúng hơn, người Kitô hữu phải khiêm tốn nhìn nhận: chính mình có trách nhiệm trong cái chết của Đức Giêsu, như thánh Phanxicô Assisi đã nói thật tha thiết "Không phải quỷ ma đóng đinh Ngài, nhưng chính anh em đã và vẫn đang đóng đinh Ngài, khi anh em đắm chìm trong tội lỗi và nết xấu của anh em". Cái chết cứu độ trong chương trình của Thiên Chúa. Cái chết của Đức Giêsu không chỉ là chuyện ngẫu nhiên, tình cờ nhưng nằm trong "kế hoạch Thiên Chúa đã định và biết trước" (Cv 2,23). Kế hoạch ấy đã được Kinh Thánh tiên báo, đặc biệt là lời ngôn sứ Isaia viết về Người Tôi tớ đau khổ. (x. Is 53, 7-8; Cv 8,32-35). Khi sống lại từ cõi chết, chính Đức Giêsu đã dùng Kinh Thánh mà dẫn giải cho các môn đệ hiểu về cái chết của Ngài (x.Lc 24,45-46) và thánh Phaolô lập lại lời tuyên xưng đức tin "Chúa Kitô đã chết vì tội lỗi chúng ta, đúng như Lời Kinh Thánh" (1 Cr 15,3). Chương trình ấy là chương trình yêu thương và cứu độ "Tình yêu cốt ở điều nầy: không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa, nhưng chính Người đã yêu thương chúng ta, và sai Con của Người đến làm của lễ đền tội, vì tội lỗi chúng ta" (1 Ga 4,10). Vì yêu thương, "đến như chính Con Một, Thiên Chúa cũng chẳng tha, nhưng đã trao nộp vì hết thảy chúng ta" (Rm 8,32) và "Đấng chẳng hề biết tội là gì, thì Thiên Chúa đã biến Người thành hiện thân của tội lỗi vì chúng ta" (2Cr 5,21); nhưng chính nhờ cái chết của Chúa Kitô, "chúng ta được hòa giải với Thiên Chúa" (Rm 5,10), được nên công chính. Chúa Kitô dâng mình cho Thiên Chúa Cha. Toàn bộ cuộc sống Đức Giêsu là một hiến tế dâng lên Thiên Chúa Cha, hiến tế của tình yêu vâng phục đối với Cha, cũng là tình yêu cứu độ con người. Khi đến trong cuộc đời nầy, Ngài đến để thi hành ý muốn của Thiên Chúa (x.Dt 10,5-10) và trọn cả cuộc sống được định hướng bằng Thánh Ý của Cha đến nỗi Đức Giêsu nói "Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy" (Ga 4,34). Đứng trước cuộc khổ nạn đau thương, nếu một đàng, Đức Giêsu cảm thấy kinh hãi trước khổ đau nên kêu lên "Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ nầy" thì ngay sau đó, Ngài lại thưa "nhưng chính vì giờ nầy mà Con đã đến" (Ga 12,27) và "Chén đắng Chúa Cha đã trao cho Thầy, lẽ nào Thầy chẳng uống?" (Ga 18,11). Đức Giêsu hoàn toàn vâng phục thánh ý của Cha, vâng phục không vì ép buộc nhưng với tất cả tự do "Mạng sống của tôi không ai lấy đi được, nhưng chính Tôi hy sinh mạng sống mình" (Ga 10,18). Chính vì thế, trong khổ đau và cái chết, nhân tính Đức Giêsu trở thành khí cụ tự do và tuyệt hảo để Thiên Chúa tỏ bày tình yêu cứu độ cho thế gian. Tình yêu vâng phục ấy vươn tới đỉnh cao trong những ngày cuối đời của Chúa Cứu Thế. Vào đêm Người bị trao nộp. Đức Giêsu đã biến bữa Tiệc Ly thành lễ tưởng niệm hiến tế Ngài dâng lên Thiên Chúa Cha để cứu độ loài người "Đây là Mình Thầy sẽ bị nộp vì anh em... Đây là Máu Thầy, Máu để lập ra Giao ước, đổ ra cho muôn người được tha tội" (Mt 26, 39) nhưng vẫn đón nhận trong tâm tình vâng phục "Xin đừng theo ý Con, nhưng xin theo ý Cha". Chính tình yêu đi đến tận cùng ấy (x.Ga 13,1) đã làm cho hiến tế của Chúa Kitô mang giá trị cứu chuộc và đền tội cho tất cả chúng ta. Để cứu chúng ta khỏi tội. Tại sao những đau khổ và cái chết của một người lại có thể cứu chuộc tất cả chúng ta? Đó là một câu hỏi thường được đặt ra. Phải quan tâm đến ý niệm của Kinh Thánh về sự liên đới tập thể. Bốn bài ca về Người Tôi Tớ của Isaia (42, 1-4; 49;, 1-6; 50,4-9; 52,13-53, 12) trình bày hình ảnh Người Tôi Tớ được Thiên Chúa chọn để "hiến mạng sống làm của lễ đền tội cho chúng ta". Qua đau khổ, Người Tôi Tớ sẽ công chính hóa nhiều người và sẽ mang lấy tội lỗi của họ. Phụng vụ thứ sáu Tuần Thánh đã lấy lại những lời nầy để nói về Chúa Kitô, và những đau khổ Ngài chịu vì chúng ta. "Người đã mang lấy những bệnh tật của chúng ta, đã gánh chịu những đau khổ của chúng ta. Thế mà chúng ta lại tưởng Người bị phạt, bị Thiên Chúa giáng họa, phải nhục nhã ê chề. Thực ra, Người đã bị đâm vì chúng ta phạm tội, bị nghiền nát vì chúng ta lỗi lầm; Người đã chịu sửa phạt để chúng ta được bình an, đã phải mang thương tích cho chúng ta được chữa lành. Tất cả chúng ta lạc lõng như chiên cừu, lang thang mỗi người một ngã. Nhưng Đức Chúa đã đổ trên đầu Người tội lỗi của tất cả chúng ta". (Is 53,4-6). Thánh Phaolô đã dùng nguyên tắc liên đới tập thể để giải thích về tội lỗi của loài người và về ơn cứu độ chúng ta trong Chúa Kitô: "Vì một người duy nhất (Ađam) mà tội lỗi đã xâm nhập trần gian và tội lỗi gây nên sự chết; như thế, sự chết đã lan tràn đến mọi người... thì ân sủng của Thiên Chúa ban nhờ một người duy nhất là Đức Giêsu Kitô, còn dồi dào hơn biết mấy" (Rm 5,12-15). Không ai trong cuộc đời nầy - dù là người thánh thiện nhất - lại có thể mang trên mình tội lỗi của mọi người và đền thay cho họ. Nhưng Chúa Kitô là Thiên Chúa làm người. Đấng vượt trên loài người, đồng thời ôm lấy mọi người trong nhân tính của Ngài và là Đầu của cả nhân loại, chỉ một mình Ngài có thể cứu độ mọi người. Hiến tế của Chúa Kitô là hiến tế cứu độ duy nhất và quyết định. Và sự cộng tác của chúng ta. Chúa Kitô đã chết vì tội lỗi chúng ta (x.1 Cr 15,3). Nhưng ơn cứu độ của Ngài không biến ta thành những kẻ lãnh nhận cách thụ động, như Thánh Phêrô nói "Chúa Kitô đã chịu đau khổ vì anh em, để lại một gương mẫu cho anh em dõi bước theo Ngài... " (1 Pr 2,24). Như vậy, người tín hữu phải cộng tác với Chúa Kitô bằng cách dõi bước theo Ngài trong cuộc sống công chính. (x. Pr 2,24). Hơn thế nữa, người tín hữu được mời gọi chia sẻ hiến tế của Chúa Kitô. Ngài đã hành động thay cho ta, đã chết vì ta ngay khi ta còn là tội nhân (x.ra 5,8), nhưng hy tế cao cả của Ngài không làm cho hy tế của chúng ta thành vô ích, trái lại, làm cho chúng trở thành những thực tại cứu độ. Chính vì thế, đối với thánh Phaolô, nhận biết Đức Giêsu là Đấng Cứu Độ, có nghĩa là chia sẻ những đau khổ với Ngài "Vấn đề là được biết chính Chúa Kitô, nhất là biết Người quyền năng thế nào nhờ đã phục sinh, cùng được thông phần những đau khổ của Người, nhờ nên đồng hình đồng dạng với Người, trong cái chết của Người" (Pl 3,10). Và ngài hãnh diện mà nói "Tôi vui mừng được chịu đau khổ vì anh em. Những gian nan thử thách Chúa Kitô còn phải chịu, tôi xin mang lấy vào thân cho đủ mức, vì lợi ích cho thân thể Người là Hội Thánh" (Cl 1,24). Mỗi người tín hữu cũng được mời gọi để mang lấy trong cuộc đời những tâm tình như thế của vị Tông Đồ dân ngoại. Chúa Kitô xuống ngục tổ tông. Gắn với cuộc khổ nạn và cái chết cứu độ của Chúa Kitô, người tín hữu tuyên xưng trong kinh Tin Kính "Ngài xuống ngục tổ tông". Ý nghĩa đầu tiên có thể chỉ là chứng thực Ngài đã chết thực sự. Chúa Kitô đã trải qua thử thách cuối cùng của loài người là cái chết (SGLC 632). Tuy nhiên, lời tuyên xưng còn bao hàm một ý nghĩa khác nữa, đó là công cuộc cứu độ của Chúa Kitô dành cho người công chính đã chết trước khi Ngài đến (SGLC 633). Thánh Phêrô nói đến việc "Chúa Kitô đã đến rao giảng cho các vong linh bị giam cầm" (1 Pr 3,19) và bài đọc các giờ Kinh phụng vụ Thứ Bảy Tuần Thánh diễn tả "Hôm nay khắp trái đất đều im lặng. Trái đất kinh sợ rồi im hơi vì Thiên Chúa đang nghĩ yên trong xác thịt và đánh thức những kẻ ngủ mê từ muôn thế hệ chuỗi dậy". Ý nghĩa thứ ba của việc Chúa Kitô xuống ngục tổ tông là lời xác quyết: Tất cả mọi người được cứu độ nhờ cuộc khổ nạn và cái chết của Chúa Kitô, mà hiệu quả không bị giới hạn trong thời gian và không gian (SGLC 634-635). Đây là giai đoạn cuối cùng trong sứ vụ cứu thế của Chúa Kitô: Công trình cứu độ của Ngài trải rộng ra cho mọi người ở mọi nơi và mọi thời. Từ bây giờ trở đi, Chúa Kitô Phục Sinh nắm giữ "chìa khóa Địa ngục và cõi chết" và "Khi vừa nghe Danh Thánh Giêsu, cả trên trời dưới đất và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quÿ; và để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng: ĐỨC GIÊSU KITÔ LÀ CHÚA!" (Pl 2,10-11). Bài 15 ĐỨC GIÊSU SỐNG LẠI VÀ LÊN TRỜI (x. SGLC từ 0638 đến 0664) "Chúng tôi xin loan báo cho anh em Tin Mừng nầy: điều Thiên Chúa hứa với cha ông chúng ta, thì Người đã thực hiện cho chúng ta là con cháu các ngài, khi làm cho Đức Giêsu sống lại" (Cv 13,32-33). "Nếu Chúa Kitô đã không sống lại thì lời rao giảng của chúng tôi trống rỗng, và cả đức tin của anh em cũng trống rỗng" (1Cr 15,14). Đối với Kitô giáo, Đức Giêsu Phục Sinh là chân lý tuyệt đỉnh của Đức Tin, và là tâm điểm đời sống người tín hữu, hôm qua cũng như hôm nay. Nhưng Đức Giêsu Phục Sinh có thực là biến cố lịch sử không? Tại sao biến cố ấy lại là nền tảng cho đức tin? Và nếu Đức Giêsu đã sống lại lên trời, Ngài có còn liên hệ đến tôi trong cuộc sống hôm nay không? Rất nhiều câu hỏi được đặt ra và thúc đẩy chúng ta suy niệm mầu nhiệm nầy trong ánh sáng Lời Chúa. Đức Giêsu Phục Sinh: Biến cố lịch sử và siêu việt. Biến cố lịch sử: Đức Giêsu sống lại từ cõi chết là biến cố có thật, với những chứng từ có giá trị lịch sử, được Tân Ước xác nhận. Hai yếu tố cần được quan tâm là sự kiện mồ trống và những lần hiện ra của Đấng Phục Sinh. Yếu tố đầu tiên là NGÔI MỘ TRỐNG (x.Ga 20; 5-7). Ở tự nó, sự kiện nầy chưa phải là bằng chứng trực tiếp cho việc Chúa sống lại, vì người ta có thể đưa ra nhiều cách giải thích khác (x. Mt 28, 11-15). Tuy nhiên sự kiện nầy đã là dấu chỉ quan trọng, là bước đầu dẫn các môn đệ đến chỗ nhìn nhận Chúa đã sống lại. Thánh Gioan viết: "Ông đã thấy và đã tin" (20,8); nghĩa là ông đã thấy ngôi mộ trống và việc đó đã dẫn ông đến chỗ tin rằng Thầy Mình đã sống lại. Yếu tố thứ hai là NHỮNG LẦN HIỆN RA của Đấng Phục Sinh. Khi sống lại từ cõi chết, Đức Giêsu đã hiện ra với nhiều người: trước hết là bà Maria Mađalêna và các phụ nữ ra mồ từ sáng sớm để hoàn tất việc ướp xác Chúa Giêsu; sau nữa là thánh Phêrô và cả Nhóm Mười Hai. Ngoài ra, thánh Phaolô còn cho biết Đức Giêsu "đã hiện ra với hơn năm trăm anh em một lượt. Người hiện ra với ông Giacôbê, rồi với tất cả các Tông Đồ" (1 Cr 15,6-7). Với những chứng từ nầy, chúng ta có thể khẳng định Đức Giêsu đã sống lại thực sự và đây là biến cố có nền tảng vững chắc. Chính các môn đệ đã không dễ dàng tin vào việc Đức Giêsu sống lại từ cõi chết, đến nỗi Đức Giêsu đã "khiển trách các ông không tin và cứng lòng" (Mc 16,14). Nhưng cuối cùng các ông đã tin và mạnh dạn làm chứng cho niềm tin của mình. Niềm tin của các tín hữu tiên khởi cũng như của chúng ta hôm nay được xây dựng trên lời chứng của các ngài, những "chứng nhân về cuộc Phục Sinh của Chúa Kitô" (x. Cv 1,22). Biến cố siêu việt: Đức Giêsu đã sống lại. Đó là sự kiện lịch sử nhưng đồng thời cũng là biến cố siêu việt, là mầu nhiệm đức tin vượt trên lịch sử. Đức Giêsu sống lại không có nghĩa là Ngài trở lại với cuộc sống trần thế như cũ, để rồi một ngày nào đó lại chết thêm một lần nữa, như con trai bà góa Naim, con gái ông Zairô, hay như Lazarô. Sự Phục Sinh của Chúa Kitô hoàn toàn khác: Ngài đã ngang qua sự chết mà bước vào cõi hằng sống, vượt trên không gian và thời gian; thần xác Ngài là thân xác tràn ngập quyền năng Thánh Thần, và được chia sẻ sự sống thần linh. Chính vì thế, khi hiện ra với các môn đệ, một đàng Đức Giêsu vẫn có thể đến trong thân xác cũ, với dấu đinh và cạnh sườn bị đâm thâu (x. Ga 20, 20; 21,9, 13-15); nhưng đàng khác, thân xác ấy lại mang những đặc tính mới; không còn bị giới hạn bởi không gian và thời gian, vì Ngài có thể hiện ra lúc nào và thế nào như Ngài muốn, cũng như Ngài có thể hiện ra với nhiều dáng vẻ khác nhau (x. Mc 16,12; Ga 20,14-16). Như vậy sự Phục Sinh của Chúa Kitô vừa là biến cố lịch sử, vừa là biến cố siêu việt. Một đàng các chứng nhân đã đích thân gặp gỡ Đấng Phục Sinh; nhưng đàng khác không ai tận mắt chứng kiến và cũng không thánh sử nào mô tả cảnh Chúa sống lại. Một đàng phục sinh là sự kiện mang tính lịch sử; nhưng đàng khác phục sinh vẫn là mầu nhiệm đức tin, vượt trên mọi giới hạn của lịch sử. Tầm vóc Cứu Độ của mầu nhiệm Phục sinh. Chúa Kitô đã sống lại. Nhưng việc sống lại này không chỉ là công việc của Chúa Kitô, mà là công trình của cả Ba Ngôi Thiên Chúa. Cả Ba Ngôi cùng hoạt động, đồng thời biểu lộ tính cách riêng biệt của mình. Phục Sinh được thực hiện trước hết do quyền năng của Chúa Cha (x. Cv 2,24); qua đó Ngài đưa trọn nhân tính của Chúa Kitô vào trong mối hiệp thông hoàn hảo của Ba Ngôi. Chúa Cha thực hiện công trình này qua tác động của Chúa Thánh Thần. Vì thế, thánh Phaolô nói rằng Đức Giêsu được đặt làm Con Thiên Chúa với tất cả quyền năng theo Thánh Thần, do việc Ngài từ cõi chết sống lại (x.ra 1,3-4). Về phần Chúa Con, Ngài sống lại vì chính Ngài là Thiên Chúa Quyền Năng, như Ngài đã nói: "Tôi hy sinh mạng sống để rồi lấy lại... Tôi có quyền hy sinh và có quyền lấy lại mạng sống ấy" (Ga 1,17-18). Như vậy Phục Sinh là công trình của Ba Ngôi, và là sự can thiệp siêu việt của Thiên Chúa trong lịch sử nhân loại. Chính vì thế, Mầu Nhiệm Phục Sinh chứa đựng tầm vóc cứu độ lớn lao cho toàn thể nhân loại: 1. Phục Sinh xác nhận Thiên Tính thật của Đức Giêsu: Phục Sinh chứng tỏ rằng Đấng chịu đóng đinh chính là Đấng Hằng Hữu, là Con Thiên Chúa và là chính Thiên Chúa: "Khi các ông giương cao Con Người lên, bấy giờ các ông sẽ biết là Tôi Hằng Hữu" (Ga 8,28). Vì Phục Sinh xác nhận Đức Giêsu là chính Thiên Chúa, nên Phục Sinh cũng xác nhận tất cả những gì Đức Giêsu đã làm và đã dạy là Chân Lý Cứu Độ, vì Ngài giảng dạy với thẩm quyền của Thiên Chúa. Đồng thời khi sống lại, Đức Giêsu đã hoàn tất mọi lời hứa trong Cựu Ước cũng như của chính Ngài. Vì thế, các thánh sử hay dùng thuật ngữ: "đúng theo Kinh Thánh" (x. 1Cr 15,3-4). 2. Phục Sinh ban tặng cho ta đời sống mới: "Như Đức Kitô đã được sống lại từ cõi chết nhờ quyền năng vinh hiển của Chúa Cha, chúng ta cũng được sống một đời sống mới" (Rm 6,4). Đời sống mới là chiến thắng sự chết do tội lỗi gây ra, và được thông phần lại vào ơn thánh sủng, nghĩa là ta được công chính hóa. Đồng thời đời sống mới hoàn toàn tất ơn làm nghĩa tử Thiên Chúa, và làm anh em của Chúa Kitô, không do bản tính tự nhiên của ta, nhưng do hiệu quả của ân sủng Thiên Chúa. 3. Phục sinh là nguyên lý và nguồn mạch sự sống lại của ta. "Như mọi người vì liên đới với Ađam mà phải chết, thì mọi người nhờ liên đới với Đức Kitô cũng được Thiên Chúa cho sống" (1Cr 15,22). Trong lúc đợi chờ sự hoàn tất đó, Đức Giêsu sống trong lòng mọi tín hữu, khiến họ "không còn sống cho chính mình nữa, mà sống cho Đấng đã chết và sống lại vì mình" (2 Cr 5,15). Đức Giêsu lên trời và Đấng Trung gian. Đức Giêsu đã chết nhưng đã sống lại và lên trời. Khi sống lại, Ngài đã nói với Maria Mađalê: "Thầy lên cùng Cha của Thầy, cũng là Cha của anh em, lên cùng Thiên Chúa của Thầy, cũng là Thiên Chúa của anh em" (Ga 20,17). Vì thế, ba biến cố: tử nạn, sống lại và lên trời của Đức Giêsu không thể tách biệt nhau, nhưng liên kết chặt chẽ trong Mầu Nhiệm Vượt Qua. Phêrô đã tuyên bố điều đó: "Đức Giêsu đã bị các ông treo lên cây gỗ mà chết đi, nhưng Thiên Chúa của cha ông chúng ta đã làm cho Người sống lại, và Thiên Chúa đã ra tay uy quyền nâng Người lên, đặt làm thủ lĩnh và Đấng Cứu Độ, hầu đem lại cho Ít-ra-en ơn sám hối và ơn tha tội". (Cv 5,30-31). Đức Giêsu lên trời, nghĩa là Ngài tham dự vào quyền năng và chính uy quyền của Thiên Chúa. Đức Giêsu là Đức Chúa, vì thế Ngài nắm mọi quyền hành trên trời và dưới đất, vì Chúa Cha "đã đặt mọi sự dưới chân Ngài" (Ep 1,20-22). Như thế, Ngài là Chúa của vũ trụ và của toàn thể lịch sử (x.Ep 1,10). Đức Giêsu lên trời và được tôn vinh sau khi đã chu toàn sứ mạng của mình, là một biến cố cứu chúng ta. Vì Ngài đã gửi Thánh Thần đến là Đấng bảo trợ chúng ta: "Thầy ra đi thì có lợi cho anh em... Thầy gửi Đấng Bảo Trợ đến cho anh em". (Ga 16,17). Đức Giêsu lên trời ngự bên hữu Chúa Cha, nhưng không xa cách Hội Thánh, xa cách chúng ta, vì Ngài hiện diện sống động hơn nhờ sức mạnh của Thánh Thần, để nâng đỡ... soi sáng, dạy dỗ và làm sáng tỏ những gì Ngài đã nói, và đã làm khi còn sống ở trần gian. Đức Giêsu là Đức Chúa, cũng là Đầu của Hội Thánh. Hội Thánh là Thân Thể của Ngài. Nên khi lên Trời, ngự bên hữu Chúa Cha, Đức Giêsu vẫn luôn thi hành chức tư tế của Ngài để cầu bầu, và là Đấng trung gian duy nhất giữa Thiên Chúa và loài người, như thánh Phaolô đã nói: "Ai sẽ kết án họ, chẳng lẽ Đức Giêsu! Đấng đã chết, hơn nữa đã sống lại và đang ngự trị bên hữu Thiên Chúa mà chuyển cầu cho chúng ta?" (Rm 8,34). Chúng ta là chi thể của Hội Thánh, và Hội Thánh là Thân Thể của Đức Giêsu, Đức Giêsu đã lên trời, và trong niềm hy vọng, chúng ta là chi thể của Ngài, sẽ bước vào trong nước Vinh Quang của Ngài, như lời Hội Thánh hằng tuyên xưng: "Đức Giêsu là Vua Vinh Hiển! Đấng chiến thắng tội lỗi và sự chết... lên trời và Đấng trung gian giữa Thiên Chúa và loài người... không phải lìa xa chúng tôi, là những kẻ yếu hèn, nhưng để chúng tôi là những chi thể của Người được tin tưởng theo Người, đến nơi mà chính Người là Đầu, và là nguyên thủy chúng tôi, đã đi trước chúng tôi" (Kinh Tiền Tụng Thăng Thiên I). Sống mầu nhiệm Phục Sinh. 1. Phụng vụ đêm vọng Phục Sinh được cử hành hằng năm, diễn tả nội dung của Mầu Nhiệm cách sâu sắc và sống động. Ngọn nến Phục Sinh được thắp lên, tượng trưng cho Chúa Kitô là Ánh Sáng thế gian. Và ánh sáng cho mỗi người chúng ta đang bước đi trong tăm tối. Ngọn nến ấy sẽ được nhúng vào nước rồi lấy ra, tượng trưng cho Chúa Kitô sống lại từ cõi chết. Rồi sau đó, chính dòng nước ấy sẽ đổ lên đầu những người chịu phép Rửa Tội, để nhờ Chúa Kitô, họ được đời sống mới. Dù đã được rửa tội rồi, ta cần tham dự nghi thức ấy với tất cả ý thức được tin và làm sống lại ơn Chúa khi ta được rửa tội. 2. Chúa Kitô sống lại trở thành Đấng Hằng Sống, và Đấng Đang Sống. Vì Ngài vẫn đang sống nên ta có thể gặp gỡ Ngài. Gặp gỡ Ngài trong cử hành Bí Tích, vì chính Chúa Kitô đang hành động trong Bí Tích. Gặp gỡ Ngài khi đọc và suy niệm Lời Chúa, vì chính Ngài đang giải thích Kinh Thánh cho ta (x.Lc 24,27). Gặp gỡ Ngài nơi anh chị em xung quanh, đặc biệt là những người nghèo khó và đau khổ, vì Ngài đang ở trong họ, và tự đồng hóa với họ (x. Mt 25,40). Bài 16 ĐỨC GIÊSU SẼ ĐẾN PHÁN XÉT KẺ SỐNG VÀ KẺ CHẾT. (x. SGLC từ 0668 đến 0670). "Hỡi những người Galilê sao còn đứng nhìn lên trời ? Đức Giêsu, Đấng vừa lìa bỏ các ông và được rước lên trời cũng sẽ ngự đến y như các ông đã thấy Người lên trời". (Cv 1,11). "Con Người sẽ ngự đến trong vinh quang của Cha Người, cùng với các Thiên Thần của Người, và bấy giờ, Người sẽ thưởng phạt ai nấy xứng việc họ làm". (Mt 16,27). I. Đức Giêsu sẽ trở lại trong vinh quang. Đức Giêsu đã xuống thế làm người để cứu độ bằng cách loan báo và thiết lập Nước Thiên Chúa, nghĩa là loan báo và thiết lập sự hiệp thông giữa Thiên Chúa với con người, giữa con người với nhau và với vũ trụ vạn vật. Khi sống lại và về trời là Người đã thiết lập sự hiệp thông ấy cách toàn hảo mà nơi bản thân Phục Sinh của Người (Redempt Missio 16). Người đã được Chúa Cha tôn người "lên trên mọi quyền lực thần thiêng... và đặt Người làm Đầu toàn thể Hội Thánh" (Ep 1,21-22). Như thế "Nước của Chúa Kitô đã hiện diện cách mầu nhiệm trong Hội Thánh" (GH 3) và Hội Thánh là "mầm mống và khởi đầu cho Nước ấy ở trần gian" (GH 5). Chúa Kitô đã thực hiện quyền tối thượng trên vũ trụ nhờ Hội Thánh, chỉ còn chờ đến ngày hoàn tất, là ngày Người trở lại (x.Ep 1,10). Tuy nhiên Nước Thiên Chúa còn phải được loan báo và thiết lập nơi tất cả mọi người, nên còn phải đương đầu với những quyền lực gian ác (x.2 Tx 2,7). Đây là công trình của tình yêu Thiên Chúa do Chúa Thánh Thần tác động nơi Hội Thánh để mời gọi mọi người đón nhận Nước Thiên Chúa. Vì thế, thời gian giữa hai lần Chúa đến là thời gian để Hội Thánh dấn thân làm chứng cho Nước Chúa, Hội Thánh sẽ phải trải qua những ngày gian nan và đen tối (x.Ep 5,16). Đây là Mùa Vọng của Hội Thánh, mùa chờ đợi và canh thức (x.Mc 13,33). Nhưng theo kế hoạch của Thiên Chúa, cuộc chiến đấu với quyền lực gian ác sẽ phải kết thúc, và Chúa Kitô sẽ kết thúc cuộc chiến thắng quyền lực gian ác bằng việc phán xét kẻ sống và kẻ chết (x. Kh 20,12). Đó là ngày Người biểu hiện vinh quang cho toàn thể tạo thành, Ngày Quang Lâm, ngày mà Hội Thánh đang lữ hành luôn tỉnh thức đợi chờ và sốt sắng, cầu nguyện : "Lạy Đức Giêsu, xin ngự đến" (Kh 22,20). II. Đức Giêsu phán xét kẻ sống và kẻ chết. Đức Giêsu đã phụng mệnh Chúa Cha để xuống thế làm người, thực hiện kế hoạch cứu độ. Vì thế Chúa Cha đã trao "toàn quyền xét xử cho Chúa Con" (Ga 5,22) và đến ngày phải kết thúc công trình cứu độ. Người sẽ đến trong vinh quang để xét xử mọi người. Người sẽ phân biệt dứt khoát Thiện với Ác, như chiên với dê (x.Mt 25,32-33) và Người phơi bày ra ánh sáng mọi điều bí ẩn trong lòng con người (x.Lc 12,2). Người phán xét về việc mỗi người đã tiếp nhận hay chối từ ơn thánh (x.Mt 11,23-24), qua việc họ có sống hiệp thông với Người, với mọi người khác và với vũ trụ vạn vật hay không (x.Mt 25,31-46). Thực ra "Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian nhờ Con của Người mà được cứu độ. Ai tin vào Con của Người, thì không bị lên án ; nhưng kẻ không tin, thì bị lên án rồi" (Ga 3,17-18) vì tự ý khước từ Thánh Thần tình yêu (x.Mt 12,32). II. Bao giờ Đức Giêsu trở lại trong vinh quang. Đức Giêsu sẽ trở lại trong vinh quang là điều chắc chắn vì Tân Ước cho biết : "Đức Giêsu Đấng vừa lìa bỏ các ông và được rước lên trời cũng sẽ ngự đến y như các ông đã thấy Người lên trời" (Cv 1,11). Nhưng bao giờ Người trở lại ? Sách khải huyền cho biết "Chẳng bao lâu nữa Ta sẽ đến" (Kh 22,20). Và Đức Giêsu đã dạy : "Anh em không cần biết thời giờ và kÿ hạn. Chúa Cha đã toàn quyền sắp đặt" (Cv 1,7), vì "không ai có thể biết được, ngay cả các thiên thần trên trời hay Người Con cũng không" (Mc 13,32). Nhưng "chính giờ phút anh em không ngờ thì Con Người sẽ đến" (Mt 24,44). Người cũng căn dặn : "anh em hãy coi chừng đừng để ai lừa gạt anh em" (Mt 24,4) vì trước đó Hội Thánh sẽ phải trải qua cuộc chiến đấu và thử thách cuối cùng, nó có thể lung lạc đức tin của nhiều tín hữu (x.Mt 24,6-12). Tuy nhiên đó chỉ là dấu hiệu "quyền lực gian ác đang giãy chết thôi, nó dẫn đưa tới việc Chúa quang lâm, cùng một nghĩa như cuộc Thương Khó kéo theo sự Phục Sinh của Người vậy." Như thế, điểm chính yếu và bức thiết đối với số phận mỗi người không phải là biết ngày giờ Người trở lại, nhưng là thái độ canh thức và kiên trì vượt qua thử thách (x.Lc 21,19). Bởi vì "khi Con Người ngự đến, liệu Người còn thấy lòng tin trên mặt đất chăng ?" (Lc 18,8). IV. Việc Đức Giêsu trở lại và con người hôm nay. Người Việt Nam thường tin rằng : làm điều thiện hay ác, cuối cùng thế nào cũng có báo ứng tương xứng. (Thiện ác đáo đầu chung hữu báo). Niềm tin này thúc đẩy mọi người lấy đó để răn mình và răn người, biết lo làm lành lánh dữ. Nhưng niềm tin Kitô giáo còn cho biết đầy đủ và rõ ràng hơn rằng : Đức Giêsu sẽ trở lại trong vinh quang để phán xét cả mọi người, kẻ sống và kẻ chết, rồi thưởng phạt mỗi người một cách tuyệt đối công minh. Niềm tin nầy càng củng cố thêm niềm tin tưởng của chúng ta, đặc biệt ở hai điểm cụ thể sau đây : Thiện ác sẽ được phân biệt rõ ràng dứt khoát khi Đức Giêsu trở lại. Tình trạng thiện ác trà trộn lẫn lộn như hiện nay ở trần gian sẽ không còn nữa, và chuyện báo ứng cũng chắc chắn và dứt khoát : "Ai làm thiện sẽ được hưởng hạnh phúc vĩnh cửu với Thiên Chúa và các người lành, ai làm ác sẽ bị kết án để chung sống với kẻ dữ muôn đời" (Mt 25,46). Mỗi người phải biết tận dụng thời gian quí giá hiện tại. Mỗi người đang sống hôm nay phải suy nghĩ và chọn lựa ngay từ bây giờ một lối sống "biết tận dụng thời buổi hiện tại" (Ep 5,16), vì chọn lựa nầy sẽ quyết định số phận vĩnh cửu của chính mình. Chúng ta "không biết ngày và giờ, nên phải theo lời Chúa dạy, luôn tỉnh thức để khi cuộc đời độc nhất của chúng ta ở trần gian chấm dứt, chúng ta được liệt vào số những người được chúc phúc... chứ không như những tôi tớ khốn nạn và lười biếng sẽ bị đẩy vào lửa đời đời. Bài 17 CHÚA THÁNH THẦN (x. SGLC từ 0683 đến 0741). "Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi. Đó là Thần Khí sự thật, Đấng mà thế gian không thể đón nhận, vì thế gian không thấy và cũng chẳng biết Người. Còn anh em biết Người vì Người luôn ở giữa anh em và ở trong anh em" (Ga 14:16-17). "Khi công trình Chúa Cha trao phó cho Chúa Con thực hiện trên trần gian đã hoàn tất (x.Ga 17:4) Chúa Thánh Thần được sai đến trong ngày lễ Ngũ Tuần để thánh hóa Giáo Hội mãi mãi, và như thế những ai tin sẽ được tới cùng Chúa Cha qua Chúa Kitô trong Thánh Thần duy nhất (x.Ep 2:18). Chính Ngài là Thánh Thần ban sự sống, là mạch nước vọt lên sự sống vĩnh cửu (x.Ga 4:14; 7:38-39), nhờ Ngài, Chúa Cha hồi sinh những kẻ đã chết vì tội lỗi, đợi đến khi phục sinh thân xác hay chết của họ trong Chúa Kitô (x.ra 8:10-11). Chúa Thánh Thần ngự trong Giáo Hội và trong tâm hồn các tín hữu như ngự giữa đền thờ (x.1 Cr 3:16; 6:19). Trong họ Ngài cầu nguyện và chứng nhận họ là dưỡng tử (x.Gl 4:6; Rm 8:15-16:26). Ngài thông đạt cho Giáo Hội toàn thể chân lý (x.Ga 16:13). (GH 4). I- Nhận biết Chúa Thánh Thần. "Không ai biết được những gì nơi Thiên Chúa nếu không phải là Thần Khí của Thiên Chúa" (1Cr 2,11). Nhưng Thần Khí chân lý, Đấng tỏ lộ cho chúng ta Chúa Kitô lại không nói điều gì về mình. Chúng ta không nghe Người nói, nhưng ta nhận ra hành động của Người. Trong Hội Thánh ta nhận ra Chúa Thánh Thần qua: Kinh Thánh mà Ngài linh hứng. Thánh truyền mà các giáo phụ là các chứng nhân cụ thể. Huấn quyền của Hội Thánh có Ngài tham dự. Phụng vụ bí tích: bằng lời nói và biểu tượng; Thánh Thần làm cho chúng ta thông hiệp với Chúa Kitô. Lời cầu nguyện, nhờ đó Ngài bầu cử cho chúng ta. Ơn đoàn sủng và thừa tác vụ mà Hội Thánh được xây dựng nhờ đó. Những dấu chỉ của đời tông đồ và thừa sai. Chứng tá của các thánh, qua đó Ngài tỏ lộ sự thánh thiện của Ngài và tiếp tục công trình cứu độ. II. Danh xưng và biểu tượng. 1. Danh xưng. Chúa Thánh Thần là tên riêng của Đấng chúng ta thờ lạy và tôn vinh cùng với Chúa Cha và Chúa Con. Hội Thánh nhận tên ấy từ Chúa Kitô và tuyên xưng Danh ấy trong bí tích thánh tẩy. Từ "Khí" dịch từ tiếng Do Thái Ruah với những nghĩa ban đầu là: hơi thở, khí, gió. Thánh Thần là hơi thở của Thiên Chúa, hơi thở Thần linh. Đức Giêsu khi hứa sai Thánh Thần đến đã gọi Chúa Thánh Thần là "Đấng Bảo Trợ" (Ga 14,16), thường được dIch là Đấng An Ủi. Chính Đức Giêsu cũng gọi Chúa Thánh Thần là "Thần Chân Lý" (Ga 16,13). Thánh Phaolô gọi Ngài là Thần Khí của lời hứa (x.Gl 3,14), Thần Khí làm cho ta nên nghĩa tử (Rm 8,15) Thần Khí của Chúa Kitô (Rm 8,11) Thần Khí của Đức Chúa (2Cr 3,17) Thần Khí của Thiên Chúa (Rm 8,9). Còn thánh Phêrô thì gọi là "Thần Khí Vinh Hiển" (1Pr 4,14). 2. Biểu tượng. Nước: Nước có ý nghĩa về hành động của Chúa Thánh Thần trong Bí tích Thánh Tẩy. Vì sau lời cầu Chúa Thánh Thần, nước trở nên dấu chỉ hữu hiệu mang lại ơn tái sinh. Dầu: dầu là Thánh Thần có liên hệ mật thiết đến nỗi trở thành đồng nghĩa. Trong nghi thức khai tâm Kitô giáo, dầu là dấu chỉ của Bí tích Thêm Sức. Bí tích trao ban Chúa Thánh Thần cách đặc biệt. Nhưng để có một ý nghĩa xác đáng, cần phải trở lại việc xức dầu, đầu tiên Thánh Thần thực hiện: xức dầu cho Đức Giêsu. Trong Cựu Ước có nhiều người được xức dầu của Thiên Chúa, nhưng Đức Giêsu là Đấng được xức dầu đặc biệt: nhân tính mà Ngôi Con nhận lấy được xức dầu trọn vẹn bởi Thánh Thần. Lửa: tượng trưng sức mạnh biến đổi của tác động Thánh Thần. Lửa từ trời đến biến đổi của lễ của Elia và Đức Giêsu nói: "Thầy đã đến ném lửa vào mặt đất" (Lc 12,49). Một trong những kiểu nói diễn tả hành động của Thánh Thần gợi cảm nhất là: "Đừng dập tắt Thần Khí". (1Tx 5,19). Mây: tỏ lộ Thiên Chúa hằng sống và cứu độ. Với Môsê trên núi Xinai, ở lều hội họp và đang khi đi trong sa mạc; với Salômôn khi cung hiến đền thờ; khi Chúa biến mình cũng như khi che khuất mắt các tông đồ ngày Chúa về trời, đám mây đều mang một ý nghĩa: Sự hiện diện của Thiên Chúa. Nhưng khi Sứ thần nói: "Thánh Thần sẽ ngự xuống trên Bà và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên Bà" (Lc 1,35) thì đám mây nầy chỉ rõ về Chúa Thánh Thần hơn cả. Chim bồ câu: Khi Đức Giêsu lên khỏi nước trong dIp chIu phép rửa, dưới hình chim bồ câu. Thánh Thần xuống trên Người. Thánh Thần cũng xuống và ở lại trong tâm hồn đã được thanh luyện của người chIu Thánh Tẩy. III- Chúa Thánh Thần trong lịch sử Cựu Ước. 1. Trong việc tạo dựng: Lời Thiên Chúa và Thần Khí của Ngài là khởi đầu cho sự hiện hữu và sống động của mọi tạo vật (TV 33,6). Về phần con người, thì Thiên Chúa đã tác tạo nên bằng chính bàn tay Người, là Chúa Con và Chúa Thánh Thần (thánh Irênê). 2. Thần Khí lời hứa: Bởi tội và sự chết, con người "bị tước mất vinh quang Thiên Chúa" (Rm 3,23), nhưng do lời hứa, khi đến hạn kÿ. Con Thiên Chúa sẽ phục hồi con người cho đồng hình đồng dạng với Thiên Chúa, bằng cách ban lại cho con người vinh quang của Thiên Chúa là Thần Khí "Đấng ban sự sống". 3. Trong các cuộc thần hiện: Truyền thống Kitô giáo luôn nhận rằng trong các cuộc thần hiện. Ngôi Lời Thiên Chúa vừa tỏ lộ vừa che dấu thần tính, qua đám mây Thần Khí. 4. Trong niềm mong đợi Đấng Cứu Thế: Khởi đầu sứ vụ loan báo Tin Mừng Nước Trời, Chúa Kitô đã dùng sách Isaia để nói về chính mình. "Thần Khí Chúa ngự trên tôi" (Is 61,1; Lc 4,18). Trong những thời sau cùng Thần Khí Chúa sẽ đổi mới tâm hồn con người, khắc sâu trong họ lề luật mới; Người sẽ thâu họp và hòa giải những dân tộc tản mác và chia rẽ; Người sẽ biến đổi công cuộc tạo dựng đầu tiên: Thần Khí sẽ sửa soạn cho Chúa "một dân được chuẩn bI sẵn sàng" (Lc 1,17). IV. Chúa Thánh Thần và đời sống Chúa Kitô. 1. Nơi vị Tiền Hô: Gioan vị tiền hô của Đấng Cứu Thế "ngay khi còn trong lòng mẹ, em đã đầy Thánh Thần" (Lc 1,15). Nơi Gioan, Thánh Thần hoàn tất việc "chuẩn bị một dân sẵn sàng đón Chúa" (Lc 1,17). Nơi Gioan, Thánh Thần hoàn tất "việc nói qua các ngôn sứ". Chính Gioan là người làm chứng: "tôi đã thấy Thần Khí tựa chim bồ câu từ trời xuống và ngự trên Người... Người thấy Thần Khí xuống và ngự trên ai thì người đó chính là Đấng làm phép rửa trong Thánh Thần" (Ga 1,32-33). 2. Nơi Đức Maria: Thánh Thần đã chuẩn bị Đức Maria bằng thánh ân của Người. - Nơi Đức Maria Thánh Thần đã thực hiện chương trình nhân hậu của Chúa Cha. Nhờ và bởi Thánh Thần. Đức Maria đã thụ thai và sinh hạ người Con Thiên Chúa. - Nơi Đức Maria. Thánh Thần chứng thực Con của trinh nữ là Con của Thiên Chúa hằng hữu. - Nơi Đức Maria. Thánh Thần bắt đầu đưa con người vốn được Thiên Chúa thương vào trong mối hiệp thông với Chúa Kitô, đặc biệt là những người bé mọn. 3. Nơi Chúa Kitô: Tất cả sứ mạng của Chúa Con và Thánh Thần trong thời viên mãn đều gồm tóm trong điều nầy: Chúa Con là Đấng được Thần Khí Chúa Cha xức dầu tấn phong làm Đức Kitô. Tất cả công trình của Đức Kitô là sứ mạng chung của Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Đức Giêsu chưa tỏ lộ rõ ràng Chúa Thánh Thần bao lâu Ngài chưa được tôn vinh bằng cuộc Tử Nạn và Phục Sinh. Tuy vậy Ngài gợi ý dần dần ngay từ lúc Ngài dạy dỗ đám đông khi nói thân xác Ngài sẽ là lương thực cho cuộc sống con người. Ngài cũng gợi ý cho Nicôđêmô, cho người thiếu phụ Samaria và cho những người tham dự lễ Nhà tạm. Với các môn đệ, Ngài nói rõ hơn khi đề cập đến cầu nguyện và vai trò chứng nhân của họ. Chỉ khi giờ đã đến, lúc Ngài sắp được tôn vinh, Đức Giêsu mới hứa gửi Thánh Thần đến vì sự chết và sống lại của Ngài sẽ hoàn thành lời hứa với các tổ phụ. Thần Khí sự thật, Đấng bầu cử khác, sẽ được Chúa Cha ban theo lời cầu xin của Đức Giêsu. Khi giờ đến, Ngài trao phó Thần Khí Ngài trong tay Chúa Cha. Và Đấng chiến thắng khi sống lại từ trong kẻ chết đã ban ngay Thần Khí bằng cách thổi hơi trên các môn đồ. V. Chúa Thánh Thần trong Hội Thánh. 1. Lễ Ngũ tuần: Việc đổ tràn Thần Khí ngày lễ Ngũ Tuần hoàn tất công cuộc Vượt Qua của Chúa Kitô. Việc Ngài đến, đã đem thế giới vào thời buổi sau cùng, thời của Hội Thánh, thời mà Nước Trời đã được lãnh nhận, nhưng chưa hoàn thành. 2. Chúa Thánh Thần, ơn huệ Thiên Chúa: Thiên Chúa là tình yêu và tình yêu là ơn huệ đầu tiên, chứa đựng mọi ơn huệ khác. "Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Người vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần mà Người ban cho chúng ta" (Rm 5,5). Chúa Thánh Thần ban lại cho những người được rửa tội được giống Thiên Chúa điều họ đã mất vì tội. Nhờ quyền năng của Thánh Thần con cái Thiên Chúa có thể mang lại hoa trái thần linh (x.Gl 5,22-23). Vì "chúng ta sống nhờ Thánh Thần, nên càng từ bỏ chính mình, chúng ta càng nhờ Thánh Thần mà tiến bước" (Gl 5,25). 3. Chúa Thánh Thần và Hội Thánh: Sứ mạng của Chúa Kitô và Chúa Thánh Thần được hoàn thành trong Hội Thánh, thân thể Chúa Kitô và là đền thờ Chúa Thánh Thần. Sứ mạng chung nầy từ nay nối kết các tín hữu của Chúa Kitô thông hiệp với Chúa Cha trong Chúa Thánh Thần. Thánh Thần chuẩn bị con người bằng ân thánh, và lôi kéo họ về với Chúa Kitô. Ngài bày tỏ cho họ Chúa Phục Sinh, nhắc nhở họ lời của Ngài, mở tâm trí họ hiểu sự chết và sự sống lại của Ngài, hiện tại hóa mầu nhiệm Chúa Kitô, nổi bật trong Bí Tích Thánh Thể, để giao hòa họ và đưa họ vào hiệp thông với Thiên Chúa và làm cho họ "sinh nhiều hoa trái" (Ga 15,5,8.16). Như vậy sứ mạng của Hội Thánh không thêm gì vào sứ mệnh Chúa Kitô và Chúa Thánh Thần nhưng Hội Thánh nhưng Hội Thánh là bí tích cho sứ mệnh ấy: bằng sự hiện diện của mình và bằng mọi phần tử. Hội Thánh được sai đi để rao giảng, làm chứng, hiện tại hóa và lan tỏa mầu nhiệm hiệp thông của Ba Ngôi Thiên Chúa. VI Trong tác động của Thánh Thần. Có nhiều điều Chúa Kitô dạy mà các môn đồ quên, hoặc chưa hiểu, khi nào có Thần Khí đến, Ngài sẽ làm sáng tỏ (x.Ga 16,13). Hãy cầu xin Ngài để ta hiểu rõ lời Chúa dạy, hầu đi trong ánh sáng. Trong đời sống cầu nguyện nhiều khi ta không biết phải làm sao cho thích hợp. Hãy chạy đến với Thánh Thần để Ngài trợ giúp, dạy dỗ (x.ra 8,26). Có những điều ta thấy là phải làm nhưng ta lại không làm, ta không đủ can đảm và ơn thánh. Hãy bắt chước Hội Thánh: Khởi đầu một công việc bao giờ cũng thành tâm xin Chúa Thánh Thần trợ giúp. Bài 18 HỘI THÁNH TRONG CHƯƠNG TRÌNH CỨU ĐỘ CỦA THIÊN CHÚA (x. SGLC từ 0748 đến 0801). "Với ân huệ của Đấng sáng lập, và trong khi trung thành tuân giữ các giới răn bác ái, khiêm nhường và từ bỏ. Hội Thánh đã lãnh nhận sứ mệnh rao truyền và thiết lập Nước Chúa Kitô và Nước Thiên Chúa trong mọi dân tộc; Hội thánh là mầm mống và khai nguyên Nước ấy ở trên trần gian". (GH 5). I. Danh Xưng 1. Danh xưng: Từ Hội Thánh (do động từ Hy Lạp ekkalein) nghĩa là một cuộc hội họp. Nó chỉ những cuộc tập họp dân chúng, thường có tính cách tôn giáo. Đây là từ ngữ thường được dùng trong bản Kinh Thánh Cựu Ước Hy Lạp, chỉ cuộc tập họp dân tuyển chọn trước Thiên Chúa, cách riêng cuộc tập họp ở Xinai của dân Israel để nhận lề luật và được Thiên Chúa thiết lập như dân thánh của Người (x.Xh 19). Tự gọi mình là Hội Thánh, cộng đoàn tiên khởi những người tin Chúa Kitô nhận biết mình thừa kế cuộc tập hợp đó. Trong Hội Thánh, Thiên Chúa tập hợp Dân Người từ khắp cùng bờ cõi trái đất. Trong ngôn ngữ Kitô giáo, từ Hội Thánh chỉ: Cuộc tập họp Phụng vụ (x.1 Cr 11,18) Nhưng cũng là một cộng đồng địa phương. Hay cũng là một cộng đồng các tín hữu toàn cầu. Ba nghĩa nầy thực tế khó tách rời. Hội Thánh chính là Dân Thiên Chúa được tập hợp trong toàn thế giới. Hội Thánh có mặt tại những cộng đồng địa phương, và thể hiện như một tập hợp Phụng Vụ, đặc biệt khi cử hành Thánh Thể. 2. Biểu tượng: Mầu nhiệm Hội Thánh quá phong phú không thể diễn tả vắn gọn. Vì thế Kinh Thánh đã dùng nhiều hình ảnh như biểu tượng để diễn tả một thực tại phong phú lạ lùng: Hội Thánh là chuồng chiên với cửa vào duy nhất là Chúa Kitô. Hội Thánh cũng là đoàn chiên mà chủ chăn là Thiên Chúa. Hội Thánh là đất trồng, là cánh đồng của Thiên Chúa (x. 1 Cr 3,9) Hội Thánh là công trình xây dựng của Thiên Chúa (x.1Cr 3,9). Hội Thánh là nhà Thiên Chúa (x.1Tm 3,15). Hội Thánh là Giêrusalem mới. Hội Thánh là Giêrusalem trên trời (xGl 4,26). Hội Thánh là Hiền Thê không tì vết của Con Chiên (x.Kh 19,7).   II. Nguồn gốc, nền tảng và sứ mệnh của Hội Thánh. 1. Nguồn gốc: Để đào sâu mầu nhiệm Hội Thánh, ta suy niệm trước hết nguồn gốc Hội Thánh trong chương trình của Ba Ngôi cực thánh và việc thể hiện chính mình từ từ trong lịch sử. Bằng sự sắp đặt hoàn toàn tự do và nhiệm mầu của thượng trí và tình thương. Thiên Chúa hằng hữu đã tạo dựng vũ trụ, nâng loài người lên tham dự đời sống thần linh. Gia đình của Thiên Chúa được cấu tạo và thể hiện dần dần theo dòng lịch sử. Thực tế từ khởi thủy, Hội Thánh đã được tiên báo bằng hình bóng, chuẩn bị kÿ diệu trong lịch sử dân Israel và trong giao ước cũ, được thành lập trong thời cuối cùng, được biểu hiện lúc Chúa Thánh Thần ngự xuống và vào ngày tận cùng, sẽ được kết thúc trong vinh quang. Hội Thánh được biểu thị trước từ khởi thủy: Thiên Chúa đã dựng nên thế giới để thông hiệp vào sự sống thần linh, sự hiệp thông được thực hiện bởi việc tập họp mọi người trong Chúa Kitô. Sự tập hợp nầy chính là Hội Thánh. Hội Thánh được chuẩn bị trong Cựu Ước: Cuộc triệu tập dân Chúa khởi đầu lúc tội lỗi tiêu diệt sự hiệp thông giữa con người và Thiên Chúa và con người với nhau. Sự triệu tập Hội Thánh có thể nói là phản ứng của Thiên Chúa đối lại sự hỗn loạn gây nên bởi tội. Cuộc chuẩn bị xa cho việc triệu tập dân Thiên Chúa nầy khởi đầu bằng việc tuyển chọn Ít-ra-en như dân của Thiên Chúa (x.St 12,2). Các ngôn sứ loan báo một giao ước mới, vĩnh cửu. Chúa Kitô đã thiết lập giao ước đó. Hội Thánh được Chúa Kitô thiết lập: Đến giờ viên mãn Chúa Con thực hiện chương trình cứu độ của Chúa Cha. Đức Giêsu khởi đầu Hội Thánh khi rao giảng Tin Mừng. Tiếp nhận lời Đức Giêsu là tiếp nhận Nước Trời, và Hội Thánh là Nước Chúa Kitô đã hiện diện cách mầu nhiệm. Đức Giêsu đã cho cộng đoàn của Người một cấu trúc sẽ còn tồn tại mãi cho đến ngày hoàn tất Nước Chúa. Trước hết là tuyển chọn 12 môn đồ mà Phêrô là thủ lãnh. Thay mặt 12 chi tộc Ít-ra-en, họ là những tảng đá của Giêrusalem mới. Nhưng Hội Thánh chủ yếu được phát sinh từ sự tận hiến của Chúa Kitô cho phần rỗi chúng ta, được thực hiện trước trong việc thiết lập Bí Tích Thánh Tẩy và thể hiện trên thập giá. Sự khai nguyên và phát triển Hội Thánh được biểu thị bằng máu và nước chảy ra từ cạnh sườn Đức Giêsu chịu đóng đinh (x.GH 3). Hội Thánh được Chúa Thánh Thần giới thiệu: Khi công trình Chúa Cha trao cho Chúa Con đã hoàn thành trên trần thế, ngày lễ Ngũ Tuần. Chúa Thánh Thần lại được gởi đến để thánh hóa Hội Thánh luôn mãi. Khi đó Hội Thánh công khai xuất hiện trước công chúng. Để thực hiện sứ mạng. Chúa Thánh Thần trang bị và hướng dẫn Hội Thánh nhờ ơn phẩm trật và đoàn sủng (x.GH 4). Hội Thánh hoàn tất trong vinh quang. Hội Thánh chỉ được hoàn tất trong vinh quang trên trời (x. GH 48). Hội Thánh sẽ được hoàn thành trong vinh quang nhưng đầy cam go. Khi đó mọi người công chính từ Ađam, Abel đến người cuối cùng được tuyển chọn, sẽ qui tụ trong Hội Thánh toàn thể bên cạnh Đức Giêsu (x. GH 2). 2. Nền tảng: Mầu nhiệm Hội Thánh. Hội Thánh ở trong lịch sử nhưng đồng thời lại vượt trên lịch sử. Chỉ với con mắt đức tin chúng ta mới có thể nhìn ra nơi những thực tại hữu hình của Hội Thánh, một thực tại thiêng liêng đầy sức sống thần linh. Hội Thánh vừa hữu hình vừa thiêng liêng. Hội Thánh đồng thời là: Xã hội có phẩm trật và nhiệm thể Chúa Kitô. Tập họp hữu hình và cộng đoàn thiêng liêng. Hội Thánh trần thế và Hội Thánh được trang điểm bằng những ân điển trời cao. Những chiều kích nầy cùng làm nên "một thực tại phức tạp bao gồm hai yếu tố nhân loại và thần linh" (GH 8). 3. Sứ Mạng: - Hội Thánh: mầu nhiệm hiệp thông con người và Thiên Chúa. Kế hoạch của Thiên Chúa: "thâu gồm tất cả nơi Chúa Kitô" (Ep 4,10). Thánh Phaolô gọi cuộc hiệp nhất giữa Chúa Kitô và Hội Thánh là "mầu nhiệm lớn lao" (Ep 5,32). Hội Thánh hiệp nhất với Chúa Kitô như chàng rể. - Hội Thánh: Bí tích phổ quát về ơn cứu độ. Hội Thánh là Bí tích, nghĩa là dấu hiệu, dụng cụ của Chúa Kitô, nhằm cứu độ mọi người (x. GH 48). III. Hội Thánh dân Thiên Chúa. "Chắc chắn trong mọi thời đại và mọi dân tộc, bất cứ người nào kính sợ Thiên Chúa và thực hành đức công chính đều được Ngài đoái thương (x.Cv 10,35). Tuy nhiên Thiên Chúa không muốn thánh hóa và cứu rỗi loài người riêng rẽ, thiếu liên kết, nhưng Ngài muốn qui tụ họ thành một dân tộc để họ nhận biết Ngài trong chân lý và phụng sự Ngài trong thánh thiện. Vì thế Ngài đã chọn dân Ít-ra-en làm dân của Ngài, đã thiết lập với họ một giao ước, giáo huấn họ dần dần. Tuy nhiên những điều ấy chỉ là hình bóng của giao ước mới là hoàn hảo hơn sẽ được ký kết trong Chúa Kitô. Chính giao ước mới trong máu Ngài. Ngài kêu gọi một dân gồm những người Do Thái và lương dân (GH 9). Toàn thể dân Thiên Chúa tham dự vào ba chức năng: tư tế, ngôn sứ và vương đế của Chúa Kitô, mang trách nhiệm thừa sai và phục vụ, khơi nguồn từ ba chức năng đó. Tư tế: khi gia nhập dân Thiên Chúa nhờ đức tin và Bí tích Thánh Tẩy, chúng ta dự vào ơn gọi tư tế. Chúa Kitô đã tạo nên những tư tế cho Chúa Cha từ dân tộc mới... những người được thánh tẩy, được Thánh Thần xức dầu, để trở thành tư tế thánh thiện (x. GH 10). Ngôn sứ: khi dân thánh vĩnh viễn gắn bó với đức tin đã được truyền lại cho các thánh và đào sâu hiểu biết về đức tin họ trở thành chứng tá cho Chúa Kitô giữa thế giới nầy. Vương đế: Chúa Kitô thực hiện vương quyền của Ngài khi lôi kéo mọi người đến với Ngài nhờ cái chết và sự sống lại của Ngài. Chúa Kitô là vua và là Chúa của vũ trụ, đã trở thành tôi tớ của mọi người, Ngài "không đến để được phục vụ, nhưng để phục vụ" (Mt 20,28). Vì vậy với Kitô hữu "cai trị là phục vụ" (GH 36). Dân Thiên Chúa thể hiện phẩm tính vương đế khi sống ơn gọi phục vụ. IV. Hội Thánh: Thân mình Chúa Kitô. - Hội Thánh hiệp thông với Chúa Kitô: Từ ban đầu Đức Giêsu cho các môn đệ tham dự cuộc sống của Ngài: mặc khải cho họ mầu nhiệm Nước Trời: cho tham dự sứ vụ, niềm vui và những thống khổ của Ngài: Ngài còn mời gọi hiệp thông sâu xa hơn: "Hãy ở lại trong Thầy... Thầy là cây nho, các con là cành" (Ga 15,4-5). "Ai ăn thịt và uống máu Tôi thì ở lại trong Tôi, và Tôi ở lại trong người ấy" (Ga 6,56). Hội Thánh không chỉ qui tụ mà còn hiệp nhất trong một thân mình với Chúa Kitô. - Hiệp nhất giữa các phần thân thể nhờ hiệp nhất với Chúa Kitô. "Trong thân thể nầy sức sống của Chúa Kitô luôn tràn qua các tín hữu" (GH 7). - Chúa Kitô là Đầu thân thể: Chúa Kitô "là Đầu của thân thể, nghĩa là Đầu của Hội Thánh" (Cl 1,18) "Ngài đứng hàng đầu trong mọi sự" (Cl 1,18) chủ yếu là trên Hội Thánh, qua đó Ngài mở rộng vương quốc Ngài. - Hội Thánh là hiền thê của Chúa Kitô: Tương quan giữa Chúa Kitô và Hội Thánh, tức đầu và các chi thể, luôn được diễn tả bằng hình ảnh bạn tình (phu quân và hiền thê) các ngôn sứ đã chuẩn bị và Gioan Tiền Hô đã loan báo chủ đề Chúa Kitô là phu quân (x. Mc 2,19). Thánh Phaolô giới thiệu Hội Thánh và mỗi tín hữu như "hiền thê" đã "đính hôn" với Chúa Kitô để nên một thần trí với Ngài (x. 1Cr 6,15-16). V. Hội Thánh là đền thờ Chúa Thánh Thần. "Linh hồn có vai trò đối với thân xác con người thế nào, thì Thánh Thần cũng có vai trò như vậy đối với Hội Thánh, Thân Mình Chúa Kitô" (Thánh Âu tinh). Chính Thần Khí Chúa Kitô, như một nguyên lý ẩn giấu, đã nối kết mọi phần thân thể với nhau cũng như với đầu, vì Ngài hiện diện hoàn toàn nơi đầu, hoàn toàn nơi thân thể, cũng như hoàn toàn trong mọi chi thể. Chúa Thánh Thần làm cho Hội Thánh trở thành "đền thờ sống động của Thiên Chúa" (2Cr 6,16) bởi Ngài hiện diện trong mỗi phần tử và trong toàn thân. VI Sống trong Hội Thánh. Hội Thánh là dân Thiên Chúa. Thiên Chúa đã không cứu độ con người cách riêng lẻ, nhưng đã qui tụ họ thành một Dân. Ý thức nầy, phải thúc đẩy chúng ta rũ bỏ chủ nghĩa cá nhân trong đời sống đức tin, và sống tinh thần cộng đoàn nhiều hơn. Mỗi người có một trách nhiệm nhưng tất cả đều nhằm phục vụ lợi ích chung. Công đồng Vaticanô II gọi Hội Thánh là dấu chỉ và khí cụ xây dựng sự hiệp nhất giữa con người với Thiên Chúa, cũng như giữa con người với nhau. Hơn ai hết, người Kitô hữu phải là người xây dựng sự hiệp nhất, yêu thương trong cuộc sống hằng ngày. Bài 19 CÁC ĐẶC TÍNH CỦA HỘI THÁNH (x. SGLC từ 0811 đến 0865) "Đức Giêsu nói với Phêrô: Còn Thầy, Thầy bảo cho anh biết: Anh là Phêrô, nghĩa là Tảng Đá, trên Tảng Đá nầy, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi" (Mt 16,18). Hội Thánh tiên khởi đã dùng bốn đặc tính được tuyên xưng trong kinh Tin Kính để tự phân biệt với các giáo phái khác. Bốn đặc tính đó là: Duy nhất, Thánh thiện, Công giáo và Tông truyền (x.GH 8). Những đặc tính nầy là hồng ân Chúa Thánh Thần thông ban và chỉ có thể hiểu biết trọn vẹn nhờ đức tin.   I. Hội Thánh duy nhất. 1. Ý nghĩa: Hội Thánh duy nhất trước hết là do nguồn gốc sâu xa của Hội Thánh. Nguồn gốc đó là Thiên Chúa duy nhất trong Ba Ngôi. Vì Thế "Hội Thánh xuất hiện như một dân tộc hiệp nhất do sự hiệp nhất giữa Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần" (GH 4). Thứ đến, Hội Thánh duy nhất là do Đấng sáng lập, Đức Giêsu Kitô "đã cùng Thập giá để hòa giải mọi người với Thiên Chúa, đã tái lập sự hiệp nhất mọi người thành một dân tộc và một thân thể" (MV 78). Cuối cùng, Hội Thánh duy nhất là do Chúa Thánh Thần tác động. Ngài "thực hiện sự thông hiệp kỳ diệu giữa các tín hữu, và liên kết tất cả trong Chúa Kitô cách mật thiết đến nỗi Ngài chính là nguyên lý hiệp nhất của Hội Thánh" (HN 2). Trên nền tảng đó, Hội Thánh duy nhất vì cùng tuyên xưng một đức tin được đón nhận từ các tông đồ, cùng cử hành một nghi lễ phụng thờ Thiên Chúa và cùng hòa hợp trong tình huynh đệ của gia đình Thiên Chúa (x.HN 2). Chúa Kitô là dấu chỉ hữu hình của sự duy nhất nầy, đồng thời "Ngài đã đặt Phêrô làm Thủ Lãnh các tông đồ và nơi Phêrô, Ngài đã đặt nguyên lý cùng nền tảng vĩnh cửu và hữu hình cho sự hiệp nhất và hiệp thông đức tin" (GH 18). 2. Trách nhiệm xây dựng sự hiệp nhất: Chúa Kitô chỉ thiết lập một Hội Thánh duy nhất. Tuy nhiên, trong dòng lịch sử, người ta lại chứng kiến tình trạng chia rẽ giữa các Kitô hữu và đây là gương xấu rất lớn trước mặt thế gian. Những rạn nứt chính thức trong sự hiệp nhất của Hội Thánh gồm có: Lạc giáo: cố chấp phủ nhận hay nghi ngờ về một chân lý phải tin. Bội giáo: chối bỏ toàn diện đức tin Kitô giáo. Ly giáo: từ chối sự tùng phục Đức Giáo Hoàng hay từ chối sự hiệp thông với các phần tử của Hội Thánh đang thụ quyền Ngài (x.GL 751). Thể theo nguyện vọng của Đức Giêsu, Đấng tha thiết cầu nguyện cho các tín hữu được nên một (x.Ga 17,21), người Kitô hữu phải nỗ lực phục hồi sự hiệp nhất giữa các Hội Thánh Kitô. Chúng ta gọi đó là nỗ lực đại kết. Công Đồng Vaticanô II thừa nhận các Kitô hữu không công giáo "vì được công chính hóa nhờ đức tin và được tháp nhập vào Chúa Kitô khi chịu Phép Rửa, nên có quyền mang danh Kitô hữu và xứng đáng được con cái trong Hội Thánh Công Giáo nhìn nhận là anh em" (HN 3). Đây là trách nhiệm của toàn thể Hội Thánh, tín hữu cũng như chủ chăn (x. HN 5). Sự hiệp nhất đó chỉ có thể có được nhờ canh tân Hội Thánh, hoán cải tâm hồn, cầu nguyện chung, hiểu biết lẫn nhau, cộng tác và đối thoại (x.HN 7).   II. Hội Thánh Thánh Thiện. 1. Nền tảng. Hội Thánh được tuyên xưng là thánh thiện vì "Chúa Kitô đã yêu thương Hội Thánh như hiền thê mình và đã hiến thân để thánh hóa Hội Thánh. Người kết hợp với Hội Thánh như thân thể Người và ban cho dư đầy ơn Thánh Thần" (GH 39). Thứ đến, vì Thánh Thần ban cho Hội Thánh dồi dào phương tiện cứu rỗi và sự thánh thiện, đó là việc rao giảng Tin Mừng, các bí tích, các nhân đức luân lý, lòng hy sinh phục vụ tha nhân và các đặc sủng (x.GH 48). Cụ thể hơn, sự thánh thiện của Hội Thánh đã chiếu tỏa ra nơi vô số các vị thánh đã được tuyên phong và trở thành những gương mẫu cho đời sống thánh thiện. 2. Cuộc lữ hành đức tin. Sự thánh thiện của Hội Thánh là một hành trình tăng trưởng, một cuộc "lữ hành Vượt Qua", chứ không phải là tình trạng tĩnh tọa an toàn. Vì thế, Hội Thánh vừa thánh thiện vừa phải luôn thanh tẩy mình, và không ngừng theo đuổi con đường sám hối, canh tân (x.GH 8). Các Kitô hữu luôn được khuyên nhủ "Anh em phải cởi bỏ con người cũ với nếp sống xưa, là con người phải hư nát vì bị những ham muốn lừa dối, anh em phải để Thần Khí đổi mới tâm trí anh em, và phải mặc lấy con người mới, là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa, để thực sự sống công chính và thánh thiện" (Ep 4,22-24). Điều nầy chứng tỏ "tất cả chúng ta thường hay vấp ngã" (Gc 3,2) và cần đến ơn tha thứ của Thiên Chúa (x.GH 8). Đồng thời cũng có nghĩa là mọi người trong Hội Thánh đều được mời gọi nên Thánh, và Đức Ái là tâm điểm của đời sống thánh thiện "Tất cả các Kitô hữu, bất cứ theo bậc sống hay địa vị nào, đều được kêu gọi tiến đến sự viên mãn của đời sống Kitô giáo và đến sự trọn lành của Đức Ái" (GH 40) vì "Đức Ái là mối dây liên kết của sự trọn lành, là sự viên mãn của lề luật, nên Đức Ái chi phối mọi phương thế nên thánh, làm cho chúng hình thành và đạt đến cùng đích. Vì thế, Đức Ái đối với Thiên Chúa và tha nhân là dấu chỉ người môn đệ chân chính của Chúa Kitô" (GH 42). III. Hội Thánh Công Giáo 1. Ý nghĩa Từ "công giáo" ở đây có nghĩa là phổ quát, bao gồm tất cả, toàn thể, và được áp dụng cho Hội Thánh theo hai hướng: Hội Thánh mang tính công giáo vì Chúa Kitô hiện diện trong Hội Thánh, và vì có Chúa Kitô hiện diện, nên nơi Hội Thánh có "đầy đủ phương tiện cứu rỗi" (TG 6). Đồng thời Hội Thánh là công giáo vì Hội Thánh được Chúa Kitô sai đến với toàn thể nhân loại (x. Mt 28,19). Mỗi Giáo Hội địa phương đều mang đặc tính công giáo, vì "Hội Thánh Chúa Kitô thực sự hiện diện trong mọi đoàn thể tín hữu địa phương hợp pháp... Chúa Kitô vẫn hiện diện trong các cộng đoàn ấy, dù nhỏ bé nghèo hèn hay tản mác khắp nơi. Và nhờ thần lực của Người, Hội Thánh hiệp thành duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền" (GH 26). Đặc tính công giáo nầy được thể hiện cách hữu hình và hoàn hảo qua việc các Giáo Hội địa phương hiệp thông với Hội Thánh Rôma. Tất cả mọi người trên trái đất đều được mời gọi vào sự hiệp nhất công giáo của Hội Thánh, nhưng "họ thuộc về hay hướng tới sự hiệp nhất đó bằng nhiều thể cách khác nhau" (GH 13). Trước hết là các tín hữu công giáo, tức là những người "gia nhập hoàn toàn vào cộng đoàn Hội Thánh, những ai lãnh Thánh Thần Chúa Kitô, chấp nhận trọn vẹn tổ chức và các phương tiện cứu rỗi được thiết lập trong Hội Thánh; và nhờ các mối liên lạc do việc tuyên xưng đức tin, các bí tích, việc cai trị của Hội Thánh và sự hiệp thông, họ liên kết với Chúa Kitô trong tổ chức hữu hình mà Người điều khiển nhờ Đức Giáo Hoàng và các Giám Mục" (GH 14). Tiếp đến là những anh chị em mang danh Kitô hữu nhưng không tuyên xưng đức tin trọn vẹn, hoặc không hiệp thông với Đấng kế vị thánh Phêrô (x. GH 15). Sau cùng là những anh chị em chưa lãnh nhận Tin Mừng Chúa Kitô, nhưng "cũng được an bài bằng nhiều cách để thuộc về Dân Thiên Chúa" (GH 16). Hội Thánh quan tâm đặc biệt đến anh chị em Do Thái giáo, tiếp đến là Hồi giáo và sau đó là các tôn giáo khác (GH 16). Trong khung cảnh của Việt Nam nói riêng và Á châu nói chung, miền đất ghi đậm dấu ấn của nhiều truyền thống tôn giáo lâu đời: Ấn giáo, Phật giáo, Khổng giáo... chúng ta cần mang lấy tâm tình của Hội Thánh hôm nay, tức là "không hề phủ nhận những gì là chân thật và thánh thiện nơi các tôn giáo đó". Bởi vì các tôn giáo đó "cũng thường đem lại ánh sáng của Chân Lý, Chân Lý chiếu soi cho hết mọi người" (NK 2). Chính vì thế, "những người vô tình không nhận biết Phúc Âm của Chúa Kitô và Hội Thánh, nhưng nếu thành tâm tìm kiếm Thiên Chúa và dưới tác động của ơn thánh, họ cố gắng chu toàn Thánh ý Thiên Chúa trong công việc mình theo sự hướng dẫn của lương tâm, thì họ có thể được cứu rỗi". Hơn thế nữa, cả "những ai vô tình chưa nhận biết Thiên Chúa cách rõ ràng, nhưng nhờ ơn Chúa, cố gắng sống đời chính trực, thì Chúa Quan Phòng không từ chối ơn trợ lực cần thiết để họ được cứu rỗi" (GH 16). 2. Trách nhiệm truyền giáo: Chính trong ý hướng "công giáo" như đã khai triển, mệnh lệnh truyền giáo xuất hiện với tất cả vẻ thúc bách "Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép Rửa cho họ nhân danh Chúa Cha và Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ những điều Thầy đã truyền cho anh em" (Mt 28, 19-20). Mệnh lệnh ấy bắt nguồn cách sâu xa từ chính Tình Yêu của Thiên Chúa dành cho nhân loại, tình yêu cứu độ muốn đưa tất cả mọi người vào sự hiệp thông giữa CHA và CON trong THÁNH THẦN tình yêu (x.TG 2). Tình yêu ấy trở thành động lực thúc đẩy Hội Thánh dấn mình vào công cuộc truyền giáo như thánh Phaolô tâm sự: "Tình yêu Đức Kitô thôi thúc chúng tôi" (2Cr 5; 14). Vì nếu Hội Thánh tin vào kế hoạch yêu thương và cứu độ dành cho mọi người, thì Hội Thánh phải là cộng đoàn truyền giáo. Chúa Thánh Thần là tác nhân chính yếu trong sứ vụ của Hội Thánh. Vì thế, để sứ vụ được hoàn thành. Hội Thánh phải được và phải để cho Thánh Thần đưa dẫn vào nẻo đường Chúa Kitô đã đi: con đường vâng phục và nghèo khó, phục vụ và hy sinh đến độ dám hiến dâng mạng sống, như "hạt lúa gieo vào lòng đất nếu chết đi mới sinh được nhiều hạt khác" (Ga 12,24), và "Máu các Thánh Tử Đạo là hạt giống nẩy sinh các Kitô hữu". (Tertulianô).   IV. Hội Thánh tông truyền Hội Thánh là tông truyền theo ba ý nghĩa căn bản: Một là vì Đức Giêsu thiết lập Hội Thánh kiên vững "trên nền tảng các tông đồ" (Ep 2,20); Hai là vì Hội Thánh bảo vệ và truyền thông sứ điệp và chứng tá của các tông đồ (Mt 28, 19,20). Ba là vì Hội Thánh được giáo huấn, thánh hóa và hướng dẫn nhờ các Đấng kế vị các tông đồ. Các Tông đồ được Chúa Phục Sinh sai đi: trước hết đến với con cái Ít-ra-en, rồi đến với mọi dân tộc. Nhờ tham dự vào quyền năng của Chúa Kitô, các ông có thể làm cho muôn dân trở nên môn đệ của Ngài, cùng thánh hóa, lãnh đạo họ, như vậy mở rộng Hội Thánh Ngài ra. Các ông trông nom săn sóc Hội Thánh dưới sự hướng dẫn của Chúa mọi ngày cho đến tận thế (x.Mt 28,20; GH 19). Nhờ quyền năng Chúa Thánh Thần ở trong mình, Hội Thánh bảo vệ giáo huấn lành mạnh của các tông đồ. Giáo huấn đó làm nên kho tàng phong phú của đức tin (x.2Tm 1, 13-14). Những chân lý nầy được trình bầy rõ ràng và đơn giản trong các lời tiền tụng lễ các Tông đồ: "Cha là Mục Tử hằng hữu, không bỏ rơi đoàn chiên của Cha, nhưng nhờ các Tông Đồ, Cha vẫn luôn giữ gìn che chở. Cha còn hướng dẫn đoàn chiên đó nhờ các ngài là những vị lãnh đạo Cha đã đặt làm mục tử thay thế Con Cha" (Lời Tiền Tụng các Tông Đồ I). Hội Thánh tiếp tục được các Tông Đồ giảng dạy, thánh hóa và hướng dẫn cho đến khi Đức Kitô trở lại, nhờ những vị kế nhiệm các ngài trong nhiệm vụ mục tử là các giám mục, hiệp nhất với Đấng kế nhiệm thánh Phêrô là mục tử tối cao của Hội Thánh. "Nhờ những vị các tông đồ đặt làm Giám mục, và nhờ những đấng kế vị các ngài cho tới ngày nay, truyền thống Tông Đồ được biểu lộ và duy trì trên khắp thế giới" (GH 20). Chúa Kitô đã đào tạo các Tông đồ theo hình thức cộng đoàn mà Ngài đã đặt Phêrô, một người được chọn giữa các ngài, làm thủ lãnh (x.GH 19). Ngày nay, Đức Gioan Phaolô II đã quả quyết rằng: "Hội Thánh hôm nay đồng tâm nhất trí hơn trong việc phục vụ và trong ý thức tông đồ. Sự hiệp nhất nầy phát sinh từ nguyên tắc "lập đoàn"... Chính Chúa Kitô đã trao phó nguyên tắc lập đoàn cho nhóm mười hai tông đồ, đứng đầu là Phêrô và Ngài thường xuyên trao lại cho Đoàn các Giám mục. Giám mục đoàn không ngừng gia tăng trên khắp địa cầu nhưng vẫn hiệp nhất với người kế vị thánh Phêrô và ở dưới sự hướng dẫn của Ngài" (ĐCC 5). V. Sống trong Hội Thánh Theo truyền thống, Hội Thánh được miêu tả do bốn đặc tính căn bản: duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền. Mỗi đặc tính nầy vừa là một hồng ân vừa là một nhiệm vụ liên kết Hội Thánh với Chúa Kitô. Là những người bước theo Chúa Kitô, và là chi thể của thân thể Ngài là Hội Thánh, chúng ta được mời gọi hoán cải tâm hồn để thắng vượt những chia rẽ (ăn rễ nơi lạc giáo, hồi giáo, ly giáo), và nhất là thắng vượt những đối lập, những cạnh tranh, những bất hòa làm sứt mẻ sự hiệp thông của Dân Chúa. Sự thánh thiện của Hội Thánh là hành trình tinh luyện để trưởng thành theo tầm vóc sung mãn của Chúa Kitô. Chúng ta hãy sống theo chân lý trong tình bác ái và lớn lên về mọi phương diện, vươn tới Đấng là Đầu, tức là Chúa Kitô, Nhờ Ngài mà toàn thân lớn lên và được xây dựng trong tình bác ái (Ep 4,15). Hội Thánh còn là "công giáo"nghĩa là phổ quát, là một hồng ân Thiên Chúa ban vì Hội Thánh được sai đi đem muôn dân về cho Chúa Kitô là Đầu trong sự hiệp nhất với Thánh Thần của Ngài (x. GH 13). Đây là một nhiệm vụ, vì tất cả Kitô hữu, không trừ ai, đều được kêu gọi truyền giảng Tin Mừng. Chúa Kitô đã xây Hội Thánh trên nền tảng các Tông đồ (Eph 2,20). Đặc sủng nầy được tiếp tục để các Giám mục kế vị các Tông đồ. Bản tính tông truyền của Hội Thánh phải được mọi tín hữu thực thi. Họ phải tiếp tục sứ mệnh mà Chúa Kitô đã trao phó cho các Tông đồ. Bài 20 TỔ CHỨC HỘI THÁNH (x. SGLC từ 0871 đến 0933). "Để chăn dắt và phát triển dân Thiên Chúa luôn mãi. Chúa Kitô đã thiết lập các chức vụ khác nhau trong Hội Thánh, hầu mưu ích cho toàn thân. Thực vậy, các thừa tác viên sử dụng quyền bính thiêng liêng mà phục vụ anh em mình" (GH 18). I. Các thành phần trong Hội Thánh. Hội Thánh vừa thiêng liêng vừa hữu hình, phần hữu hình ai cũng có thể thấy được. Đó là một tổ chức, nghĩa là một tập hợp người, có những chức năng nhất định, với cơ cấu và phương thức hoạt động vì những quyền lợi chung, và nhằm một mục đích chung. Trong tổ chức Hội Thánh mọi người đều được gọi là Kitô hữu hay tín hữu. "Kitô hữu là những người được tháp nhập với Chúa Kitô nhờ bí tích Thánh Tẩy, làm thành dân Thiên Chúa; do đó tham dự theo cách thức của mình vào chức vụ ngôn sứ, tư tế và vương giả của Chúa Kitô. Họ được mời gọi thi hành sứ mệnh mà Thiên Chúa trao cho Hội Thánh chu toàn trong thế giới, mỗi người theo điều kiện của mình" (GH 31). "Giữa các tín hữu có các thừa tác viên có chức Thánh được gọi là giáo sĩ, còn các người khác được gọi là giáo dân. Trong cả hai thành phần vừa kể, có những tín hữu tận hiến cho Thiên Chúa cách đặc biệt trong các Hội Dòng tận hiến, được gọi là tu sĩ" (Giáo Luật 207). Tuy nhiên cơ cấu phẩm trật trong Hội Thánh không như các tổ chức xã hội ngoài đời "Hễ ai làm lớn thì lấy quyền mà cai trị dân" (Mt 20,25). Cơ cấu của Hội Thánh có Chúa Kitô là Đầu, là trung tâm điểm, còn các thành phần khác giống như những vòng tròn đồng tâm khác nhau, nhưng tất cả "đều bình đẳng với nhau về phẩm giá và hành động. Nhờ sự bình đẳng nầy, họ cộng tác với nhau để xây dựng Thân Thể Chúa Kitô tùy theo điều kiện và chức vụ riêng từng người" (Giáo Luật 208). II. Phẩm trật trong Hội Thánh. Đức Giêsu đã thiết lập cộng đoàn Mười Hai Tông Đồ và đặt thánh Phêrô đứng đầu. Các Giám Mục kế vị các Tông đồ cùng họp thành Giám mục đoàn, có Đức Giáo Hoàng kế vị thánh Phêrô làm đầu. Đức Giáo Hoàng là giám mục Rôma "Là nguyên lý và nền tảng hữu hình và vĩnh cửu của sự hiệp nhất giữa các Giám mục cũng như giữa đông đảo các tín hữu" (GH 23). "Vì là đấng đại diện Chúa Kitô và chủ chăn của toàn thể Hội Thánh nên ngài có quyền tròn đầy, tối cao, và phổ quát để có thể tùy ý hành xử" (GH 22). Các Giám mục theo phần mình cũng là nguyên lý và nền tảng hữu hình của sự hiệp nhất trong các Hội Thánh ở địa phương mình. Các ngài được các linh mục và phó tế trợ giúp, Giám mục là thành viên trong Giám mục đoàn, nên không những phải điều khiển tốt Hội Thánh ở địa phương mình, mà còn phải quan tâm đến tất cả các Hội Thánh địa phương khác nữa (x. GH 23). Giám mục đoàn "Có quyền bính tối cao và tròn đầy trên toàn Hội Thánh, nhưng quyền ấy chỉ được thi hành khi có sự chấp thuận của Giám mục Rôma" (GH 22). Các giáo sĩ gồm giám mục, linh mục và phó tế. Các ngài được chọn lựa và thiết lập để bảo đảm cho dân Thiên Chúa có các chủ chăn, và được tăng trưởng không ngừng. Các ngài nhận những tác vụ khác nhau trong Hội Thánh và trở thành thừa tác viên có chức thánh, hầu mưu ích cho toàn thân thể (x. GH 18). Vì thế, các ngài hành động nhân danh Chúa Kitô là Đầu, nhận lãnh tác vụ và quyền bính để phục vụ như "tôi tớ của Chúa Kitô" (Rm 1,1), và thi hành tác vụ của mình trong một cộng đoàn, giám mục trong Giám mục đoàn, linh mục trong Linh mục đoàn. Sau hết mỗi vị cũng hành động với tư cách cá nhân, chịu trách nhiệm cá nhân trước Đấng đã kêu gọi và trao quyền cho từng vị. III. Tác vụ của Giáo sĩ. 1. Giảng dạy: "Việc rao giảng Phúc Âm là một nhiệm vụ trổi vượt trong các nhiệm vụ chính yếu của Giám mục. Giám mục là những người rao truyền đức tin, đem nhiều môn đệ mới về với Chúa Kitô. Giám mục là những tiến sĩ đích thực, nghĩa là có uy quyền của Chúa Kitô, rao giảng cho những kẻ được trao phó cho các ngài" (GH 25). Cũng thế, "các Linh mục, vì là cộng sự viên của các Giám mục, nên trước tiên có nhiệm vụ loan báo cho mọi người: Phúc Âm của Thiên Chúa" (LM 4). Đức Giáo Hoàng thủ lĩnh giám mục đoàn, được hưởng ơn vô ngộ khi lấy tư cách là chủ chăn và thầy dạy tối cao để công bố một giáo thuyết về đức tin và phong hóa bằng một phán quyết chung cuộc. Giám mục đoàn cũng được hưởng ơn vô ngộ khi đồng thanh giảng dạy không những trong Công Đồng chung, mà cả khi các ngài thông hảo với nhau và với Đấng kế vị Phêrô để giảng dạy những giáo lý về đức tin và phong hóa (x.GH 25). 2. Thánh Hóa: Giám mục có "trách nhiệm phân phối ơn thánh của Kitô, vị Tư Tế Tối Cao" (GH 26), đặc biệt trong bí tích Thánh Thể. Giám mục và linh mục thánh hóa Hội Thánh bằng kinh nguyện và việc làm, bằng thừa tác vụ Lời Chúa và các bí tích, bằng gương sáng "đừng lấy quyền mà thống trị những người Thiên Chúa đã trao phó cho" (1Pr 5,3). 3. Điều hành: "Các giám mục điều khiển Hội Thánh riêng biệt của mình như vị đại diện và khâm sứ của Chúa Kitô, bằng lời khuyên dạy, khích lệ, gương sáng, nhưng cũng bằng uy thế và bằng thi hành quyền thánh nữa" (GH 27). Tuy nhiên, các ngài phải thi hành quyền để xây dựng, và với tinh thần phục vụ như Thầy mình (x.Lc 22,26-27), trong sự hiệp thông với Hội Thánh toàn cầu, dưới sự hướng dẫn của Đức Giáo Hoàng. IV. Giáo dân và sứ mệnh. Giáo dân là toàn bộ các Kitô hữu không thuộc thành phần có chức thánh hoặc tu sĩ, họ được tháp nhập với Chúa Kitô nhờ bí tích Thánh Tẩy và Thêm Sức, hội nhập vào dân Thiên Chúa, được tham dự chức năng ngôn sứ, tư tế, và vương giả của Chúa Kitô theo cách thức riêng của mình. Giáo dân thực thi sứ mệnh của toàn Dân Chúa trong Hội Thánh và thế giới. Sứ mệnh của họ là "Tìm kiếm Nước Thiên Chúa ngay trong chính việc quản trị và sắp đặt các sự việc trần thế theo ý Thiên Chúa. Họ sống giữa trần gian, nghĩa là giữa tất cả cũng như từng công việc và bổn phận trần thế, giữa những cảnh sống thường ngày trong gia đình và ngoài xã hội... để như men từ bên trong, họ thánh hóa thế giới... hầu ca tụng Đấng Tạo Hóa và Đấng Cứu Độ" (GH 31). Một cách cụ thể, giáo dân: 1. Tham gia vào chức vụ ngôn sứ của Chúa Kitô bằng việc Phúc Âm hóa, "nghĩa là loan báo Chúa Kitô bằng đời sống chứng tá và bằng lời nói". Đặc biệt trong đời sống hôn nhân và gia đình, trong sinh hoạt nghề nghiệp và những dấn thân xã hội khác (x.GH 35). Những giáo dân có khả năng và được đào tạo còn có thể góp phần trong việc dạy giáo lý (GL 774), dạy các khoa học thánh (GL 229), và trong việc sử dụng các phương tiện truyền thông xã hội (GL 823). 2. Tham dự vào chức vụ tư tế cộng đồng của Chúa Kitô, để làm cho "mọi hoạt động, kinh nguyện, công việc tông đồ, đời sống hôn nhân và gia đình, việc làm ăn thường ngày, việc giải lao cho tâm trí cũng như thể xác và mọi thử thách của cuộc sống... trở nên hiến lễ thiêng liêng đẹp lòng Thiên Chúa nhờ Đức Giêsu Kitô" (GH 34), và hiến lễ đó được liên kết với việc dâng lên Chúa Cha. Như thế "giáo dân thánh hiến thế giới này cho Thiên Chúa, thờ phượng Thiên Chúa khắp nơi bằng đời sống thánh thiện của mình" (GH 34). 3. Tham dự vào chức vụ vương giả của Chúa Kitô, khi họ "chiến thắng ách thống trị của tội lỗi nơi mình, bằng một đời sống từ bỏ mình và thánh thiện" (GH 36). "Khi các thể chế và cảnh sống của thế giới gây nên dịp tội, họ phải góp sức làm cho chúng trở nên lành mạnh, phù hợp với tiêu chuẩn của đức công bình... như thế họ làm cho những giá trị luân lý thấm nhập vào văn hóa và các công trình của loài người". (GH 36). "Khi họ cảm thấy ơn gọi hoặc được mời gọi cộng tác với các chủ chăn để phục vụ cộng đoàn Hội Thánh, bằng cách thi hành những tác vụ khác nhau tùy theo ơn huệ và đặc sủng mà Chúa trao ban (EN 11), chẳng hạn Hội nghị giáo phận (GL 463), Hội đồng mục vụ (GL 511). Khi họ biết "phân biệt đâu là quyền lợi và nghĩa vụ của mình, xét theo là phần tử của Hội Thánh và xét theo là phần tử của xã hội loài người. Rồi họ cố gắng hòa hợp cả hai loại quyền lợi và nghĩa vụ đó bằng cách nhớ rằng lương tâm Kitô giáo phải hướng dẫn họ trong mọi lãnh vực trần thế"(GH 36). V. Đời Thánh Hiến. Đây là bậc sống được thiết lập do việc tuyên khấn các lời khuyên của Phúc Âm, tuy không liên quan đến cơ cấu phẩm trật của Hội Thánh, nhưng cũng gắn chặt với đời sống và sự thánh thiện của Hội Thánh (x. GH 44). "Đặc điểm của đời thánh hiến chính là việc tuyên khấn ba lời khuyên trong một bậc sống cố định được Hội Thánh chấp thuận" (GH 43). Đời thánh hiến giống như một cây sinh nhiều chi nhánh xum xuê, đã phát sinh nhiều lối sống khác nhau như: 1. Đời sống ẩn tu: Các vị ẩn tu không tuyên khấn công khai giữ ba lời khuyên, nhưng hiến dâng cuộc đời để ca tụng Thiên Chúa và cứu độ thế giới bằng việc sống tách biệt hẳn khỏi trần thế, trong thinh lặng cô tịch, trong cầu nguyện liên lĩ và hãm mình (GL 603). 2. Các trinh nữ: Từ thời các Tông Đồ đã có các trinh nữ, là những tín hữu được Chúa mời gọi sống trọn vẹn gắn bó với Người (x.1Cr 7,34-36) để tất cả trái tim, thân xác và tinh thần được tự do hơn, họ đã quyết định sống trong bậc đồng trinh vì Nước Trời (x.Mt 19,12), quyết định được Hội Thánh chấp thuận. 3. Đời sống dòng tu: Phát sinh từ Đông phương và những thế kỷ đầu, đời sống dòng tu khác với những hình thức sống thánh hiến ở khía cạnh phượng tự, tuyên khấn công khai giữ các khuyên Phúc Âm, sống chung với nhau trong tình huynh đệ, làm chứng về sự hiệp nhất giữa Chúa Kitô và Hội Thánh (x.GL 607). 4. Các tu hội đời: Là tu hội sống đời thánh hiến, trong đó các tín hữu sống các lời khuyên Phúc Âm giữa đời để tiến tới Đức Ái toàn hảo, và nỗ lực góp phần thánh hóa đời, nhất là từ bên trong (GL 710), theo kiểu men trong bột. 5. Các tu đoàn Tông Đồ: Cũng là hội dòng tận hiến nhưng không có lời khấn dòng và chỉ theo đuổi mục tiêu tông đồ riêng của tu đoàn. Họ sống chung trong tình huynh đệ theo lối sống đặc thù của họ, và tiến tới Đức Ái toàn hảo bằng việc tuân giữ hiến pháp của Tu đoàn (GL 131). Như thế, những người hiến thân cho Thiên Chúa mà họ yêu mến trên hết mọi sự, đã được thánh hiến nhờ bí tích Thánh Tẩy, lại được thánh hiến thâm sâu hơn để phụng thờ Thiên Chúa và phục vụ lợi ích của Hội Thánh, "nên họ có bổn phận làm việc truyền giáo đặc biệt hơn theo thể chế của họ" (GL 783). Đời thánh hiến xuất hiện như dấu chỉ đặc biệt của Mầu Nhiệm Cứu Độ, và dầu chứng tá của đời sống ấy có công khai hay kín đáo hoặc bí ẩn nữa, thì việc Chúa Kitô quang lâm vẫn là cội nguồn và là Vừng Đông cho cuộc sống thánh hiến của họ (x.GH 44). VI. Giáo Hội Việt Nam trong lòng dân tộc. Hội đồng Giám Mục Việt Nam đã chọn đường hướng mục vụ là "Sống Phúc Âm trong lòng dân tộc để phục vụ hạnh phúc của đồng bào" (Thư Chung 1980). Muốn đạt mục đích đó, Giáo Hội Việt Nam phải nỗ lực để trở thành: Một cộng đoàn các tín hữu sống hiệp thông đích thực với Thiên Chúa để có thể hiệp thông với nhau chân thành hơn. Hiệp thông với nhau nhưng không đồng hóa (hòa nhi bất đồng), không kÿ thị, cục bộ, tự tư tự lợi, cá nhân chủ nghĩa; và để hiệp thông với cả vũ trụ vạn vật nữa, không lãng phí tài nguyên, không gây ô nhiễm môi sinh, không sử dụng của cải vào mục tiêu xấu. Đồng bào ta sẽ căn cứ vào sự hiệp thông như trên để nhận ra ta là môn đệ đích thực của Chúa Kitô (x.Ga 13,35). Một cộng đoàn hiệp thông chỉ để phục vụ cách khiêm tốn, không theo thói "thủ lãnh các dân và những người làm lớn" quen có những hình thức hách dịch, quan liêu, cửa quyền (x.Mt 20,25), nhưng theo gương Chúa Kitô luôn "hiền lành và khiêm tốn" (Mt 12,29), "không để cho người ta phục vụ, nhưng để phục vụ mọi người" (Mt 20,28), nhất là phục vụ những người nghèo khổ, bất hạnh, bị xã hội bỏ rơi. Một cộng đoàn hiệp thông với đông đảo anh chị em thuộc các tôn giáo bạn. Luôn ý thức mình chỉ là một thiểu số trong dân tộc, không thể dửng dưng, khép kín; nhưng sẵn sàng đối thoại, tôn trọng, hợp tác trong tất cả những gì ích nước lợi dân, xóa dốt giảm nghèo, xây dựng một nếp sống và lối diễn tả đức tin có bản sắc dân tộc hơn (x. Thư Chung Mục vụ 1992). Ngày nay, hiệp thông là một trong những dấu chỉ hùng hồn nhất và là một trong những đường lối hữu hiệu nhất để phục vụ Phúc Âm (x.KHGD 64).   Bài 21 LƯỢC SỬ HỘI THÁNH CÔNG GIÁO TẠI VIỆT NAM "Cây có cội, nước có nguồn". Sức sống của Hội Thánh hôm nay là thành quả của hơn 400 năm hạt giống Tin Mừng được gieo trồng. Cũng là thành quả của hơn 300 năm cây đức tin được vun xới và phát triển, hơn ba trăm năm Hội Thánh chia sẻ muôn nỗi thăng trầm của quê hương, và cũng là hơn 300 năm chan hòa hồng ân Thiên Chúa. "…Nhìn về quá khứ, chúng tôi cảm mến sâu sắc bàn tay nhân lành của Thiên Chúa, đã êm ái và mạnh mẽ hướng dẫn Hội Thánh Người trên đất nước Việt Nam của chúng ta. Chúng tôi biết ơn công lao của vô vàn tín hữu đã làm sáng tỏ đức tin và lòng yêu nước của mình... " (Trích Thư Chung HĐGMVN 1980, số 17). I. Có những người ra đi gieo giống... 1. Hạt giống Tin Mừng được gieo vãi (Thế kỷ XVI). Những tiến bộ của ngành hàng hải giúp Christophe Comlomb đến được Mỹ Châu năm 1542, cũng đã nối dài những bước chân truyền giáo của các thừa sai vượt đại dương, đến quê hương Việt Nam, Năm 1533, theo Khâm Định Việt Sử (33,6b), chỉ dụ cấm đạo của vua Lê Trang Tôn đã nói đến một thừa sai tây phương tên I-Ni-Khu, lén theo đường biển vào truyền đạo tại làng Ninh Cường, và làng Trà Lũ. Tiếp theo là dấu chân rao giảng của các linh mục dòng Đa Minh: Năm 1550, cha Gaspar De Santa Cruz đến giảng đạo tại Hà Tiên; Năm 1588, hai cha Luis de Fonseca và Grégoire de la Motte bị vua Chiêm Thành hãm hại tại Quảng Nam. Trước đó, năm 1583, do lời mời của nhà Mạc, các linh mục dòng Phaxicô đã đến Bắc Hà. Cha Bartôlômêô Ruiz đã giảng đạo bằng tranh ảnh tôn giáo. Sự kiện nổi bật cuối thế kỷ XVI (1591) là việc trở lại của công chúa Mai Hoa (Maria Flora) tại Thanh Hóa, do linh mục Ordonez. Hiện nay tại An Trường (Thanh Hóa) vẫn còn một nền nhà thờ và một giếng Da-tô do công chúa cho đào (1). Người tín hữu đầu tiên. Dựa vào gia phả nhà họ Đỗ, cụ Đỗ Hưng Viễn, người làng Bồng Trung tỉnh Thanh Hóa, được coi là tín hữu Việt Nam tiên khởi. Cụ đi sứ và được rửa tội tại Macao thời vua Lê Anh Tôn (1573), nhưng con cái không ai theo đạo (2). 2. Và những người đầu tiên Việc các cha dòng Tên, dưới sự điều hành của cha Buzomi đến Cửa Hàn, Quảng Nam, năm 1615, đã khai mở một giai đoạn mới trong lịch sử truyền giáo. Thừa hưởng kinh nghiệm "hội nhập văn hóa" của cha Matcô Ricci tại Trung Hoa và Valignanô tại Nhật Bản (3), các vị quan tâm đặc biệt đến việc học ngôn ngữ, phong tục dân Việt, và giảng đạo bằng tiếng Việt. Thế là chỉ trong vài chục năm, Tin Mừng đã đi vào văn hóa Việt Nam. Các tín hữu Việt Nam tiên khởi đã đóng góp vai trò rất lớn lao trong công trình ấy. Ngoài việc giúp các thừa sai học tiếng, các vị còn phiên dịch kinh sách và giáo lý ra chữ Nôm để phổ biến. Sử sách còn nhắc đến cụ nghè Giuse, sư cụ Manuel giúp cha Pina ở Quảng Nam, đến cụ Gioan Kim giúp cha Đắc Lộ ở An Vực (Thanh Hóa) (4) và những vần thơ văn của công chúa Catarina: "lịch sử đạo Thiên Chúa từ tạo thiên lập địa đến khi Chúa xuống thế... ". "... Thơ văn đó được các người có đạo truyền tụng nhau, họ ngâm lên lúc làm việc ở nhà, ở ngoài đồng hay lúc đi đường" (5). Phần lớn những văn dâng hoa cổ và cung giọng ngắm "15 sự thương khó" hiện nay, cũng đã xuất phát từ giai đoạn nầy. Nếu người ta quan tâm nhiều hơn đến việc hình thành chữ quốc ngữ trong giai đoạn nầy, được ổn định năm 1651, khi cha Đắc Lộ cho xuất bản tại Rôma tự điển Việt-Bồ-La, sách văn phạm An Nam và cuốn song ngữ "Phép giảng tám ngày" (6); thì cũng đừng quên những tác phẩm tôn giáo bằng chữ Nôm; thừa sai Majorica với 48 tác phẩm về suy niệm và hạnh các Thánh; một giáo hữu Quảng Ngãi là Gioan Thanh Minh với 15 thi phẩm về tiểu sử các Thánh; và nhất là linh mục Lu-y-Đoan với tập thơ lục bát "Sấm truyền ca" (1670) viết lại truyện Cựu Ước, với nhiều điển tích và thành ngữ Á Đông (7). Cộng tác với thừa sai, còn có một đội ngũ đông đảo các tín hữu Việt Nam, hiến toàn thân cho việc tông đồ, đó là các thầy giảng. Các thầy tuyên khấn độc thân, để tài sản chung và vâng lời thầy bề trên (lớp đầu tại Kẻ Chợ, Hà Nội năm 1630); (tại Cửa Hàn Quảng Nam năm 1643). Các thầy giảng hỗ trợ các thừa sai trong việc giảng dạy giáo lý, điều hành và duy trì các cộng đoàn Dân Chúa, khi các ngài bị trục xuất hoặc vắng mặt. Những chứng nhân đức tin đầu tiên: Tại Đàng Ngoài: Năm 1630, anh Phanxicô, dù bị chủ là một hoàng thân cấm đoán, vẫn tiếp tục chôn xác người chết, nên bị giam, tra tấn và bị giết. Tại Đàng Trong: Năm 1644, Thầy Anrê Phú Yên bị bắt tại nhà cha Đắc Lộ. Dù bị quan quân đe dọa, thầy không bỏ đạo, nên bị chém đầu, trên môi còn mấp máy Danh Đức Giêsu. Nói về tín hữu Việt Nam thời này, cha Đắc Lộ viết: "... Điều làm tôi cảm động hơn hết là thấy ở xứ đó, bao nhiêu người Công Giáo là bấy nhiêu Thiên Thần, và ơn Phép Rửa đã ban cho họ một tinh thần mà chúng ta gặp thấy ở các Tông Đồ và các Thánh Tử Đạo tiên khởi..."(8). II. Trong tình yêu chăm sóc của Hội Thánh toàn cầu (1659-1960). Năm 1622 là khúc ngoặc quan trọng trong lịch sử truyền giáo của Hội Thánh. Trước những lạm dụng của các vị vua Bảo Trợ, Tòa Thánh lấy lại quyền điều hành việc truyền giáo, và thiết lập Thánh Bộ Truyền Bá Đức Tin (1622), Thánh Bộ đã kiểm tra lại toàn bộ sinh hoạt truyền giáo trên thế giới, và cung cấp nhiều phương tiện truyền giáo như: mở nhà in đa ngữ, hỗ trợ tài chính, gửi các sách phụng vụ và giáo lý, lập chủng viện Urbano 1627, để đào tạo các chủng sinh ở các miền truyền giáo gửi về, lập ra chức Giám quản Tông Tòa cho các giám mục miền truyền giáo, trực thuộc Tòa Thánh. Phương pháp truyền giáo ở các nơi đều phải tuân theo sự hướng dẫn của Thánh Bộ, dựa trên bản Huấn Thị 1659, với những chỉ thị tích cực: "Các thừa sai phải được huấn luyện theo luật bác ái Tin Mừng, biết thích nghi với phong tục và tính tình người khác... Công việc trước mắt của chư huynh là đưa những người địa phương, xứng đáng lên chức linh mục và cả giám mục nữa... Hãy rao giảng cho tín hữu bổn phận trung thành với chính quyền... Đừng đưa vào nước họ đất nước của mình, mà là Đức Tin, Đức Tin này không hề khai trừ hay làm tổn thương những nghi lễ tập tục của bất cứ dân tộc nào cả... "(9). Cũng năm đó, ngày 9-9-1659. Tòa Thánh thiết lập hai giáo phận trên đất Việt, và đặt hai Giám Quản Tông Tòa đầu tiên: Giáo phận Đàng Trong: từ sông Gianh trở vào, với Đức cha Lambert de la Motte. Giáo phận Đàng Ngoài: từ sông Gianh trở ra, với Đức cha Francois Pallu. Trải qua ba trăm năm (từ 1659-1960). Hội Thánh Việt Nam đã phát triển trong sự chăm sóc của nhiều đơn vị thừa sai; với sự đóng góp rất lớn lao của các linh mục và tu sĩ Việt Nam; đã đồng hành cùng dân tộc trong mọi biến cố, và đã tích cực làm chứng cho niềm Tin bằng nhiều hoạt động bác ái phục vụ, cũng như bằng chính cả mạng sống mình. 1. Những vòng tay thân ái. Nằm trong sự điều hành chung của Thánh Bộ Truyền Giáo, tuổi thơ của Hội Thánh Việt Nam đã được biết bao trái tim và bàn tay các tín hữu khắp bốn phương săn sóc và dưỡng nuôi: Các nhà truyền giáo tại Việt Nam, linh mục hoặc tu sĩ nam nữ, thuộc nhiều quốc tịch như Pháp, Tây Ban Nha, Ý, Đức, Bỉ, Ái Nhĩ Lan, Gia Nã Đại, Hoa Kÿ, Trung Hoa... Các ngài đã sẵn sàng từ bỏ quê cha đất tổ, để đến hoạt động tại Việt Nam, và ước nguyện được phục vụ Tin Mừng trên giải đất nầy. Các ngài đã chấp nhận nếp sống thiếu thốn tiện nghi, cư ngụ trong các mái nhà tranh vách đất, chịu đựng khí hậu nóng bỏng của vùng nhiệt đới, chấp nhận cả những ngược đãi, hiểu lầm. Trong những tập thể đóng góp nhiều công sức nhất cho chúng ta có ngày hôm nay, phải kể đến Hội Thừa Sai Paris, Dòng Đaminh, Dòng Tên, và Dòng Phanxicô. Hàng ngàn thành viên Hội Thừa Sai Paris đã đảm nhiệm toàn bộ khu vực địa phận Tây Đàng Ngoài (nay là các địa phận Hà Nội, Vinh, Hưng Hóa, Phát Diệm và Thanh Hóa), và khu vực địa phận Đàng Trong (nay là 15 địa phận thuộc giáo tỉnh Huế và Sài Gòn) suốt 300 năm, trước khi giao lại cho hàng Giáo phẩm Việt Nam. Tương tự như thế là dòng Đa Minh với địa phận Đông Đàng Ngoài (nay là các địa phận Hải Phòng, Bùi Chu, Bắc Ninh, Thái Bình và Lạng Sơn), với 243 thừa sai Tây Ban Nha và 134 linh mục Dòng người Việt. Ngoài ra Dòng Tên, sau 1659 vẫn còn một số thừa sai hoạt động tại Đàng Trong đến năm 1783, và Đàng Ngoài đến 1802. Riêng Dòng Phanxicô, với hơn một thế kỷ (từ 1719-1834), đã thiết lập thêm hàng trăm giáo xứ mới tại miền Trung và miền Nam. Từ năm 1862, khi vua Tự Đức chấp thuận cho việc giảng đạo, số các Dòng Tu đến trên giải đất hình chữ "S" này ngày càng nhiều, và đảm nhiệm những sinh hoạt ngày càng đa dạng. Dòng Nữ có các Dòng: Phaolô thành Chartres (1860), Dòng kín Cát minh (1862), Chúa Quan Phòng (1976), Đức Bà Truyền Giáo (1924), Vinh Sơn Phalô (1925), Nữ Tá Quốc Tế, Biển Đức và Tiểu Muội (1954), Nữ tu Đấng Chăn Chiên Lành (1958), Con Đức Mẹ Phù Hộ Salêsian và Nữ Tÿ Đức Giêsu - Mẹ Maria (1961), tu hội Dâng Truyền (1964) và dòng Phalô Thiện Bản (1974). Dòng Nam có các Dòng: Lasan (1866), Đaminh Lyon (1902), Chúa Cứu Thế (1925), Phanxicô (1928), Tu hội Xuân Bích (1933), Đan viện Xi-tô Mỹ Ca (1933), Biển Đức (1935), Gioan Thiên Chúa (1952), Don Bosco (1952), Tiểu Đệ Đức Giêsu (1953), Lagiariste (1954), Dòng Tên (1957), Đức Mẹ Người nghèo (1970) và Dòng Thánh Thể (1971). Ngoài ra chúng ta không thể quên những "đồng xu mỗi tuần" của hàng triệu tín hữu khắp nơi, tham gia vào các Hội Truyền Bá Đức Tin ở Lyon (1822), Hội Thánh Nhi (1843) nhằm giúp trẻ em miền truyền giáo, và Hội Thánh Phêrô (1893) giúp các chủng viện truyền giáo. Cũng không thể quên, đàng sau các nhà truyền giáo là tập thể các Dòng tu quốc tế, sẵn sàng yểm trợ các chương trình từ thiện, tặng học bổng... Và cũng thế, làm sao quên được hàng triệu các thân hữu, và ân nhân khắp hoàn cầu, mỗi ngày dâng lời cầu nguyện cho Hội Thánh Việt Nam. 2. Đảm nhận vận mệnh chính mình. Đọc lại lịch sử Giáo Hội Việt Nam, người ta thấy ngoài vai trò của các thừa sai nước ngoài, việc phát triển của Hội Thánh đã nhờ vào chính những người Việt thiện chí và hăng say, dâng hiến trọn cuộc sống cho Nước Trời, đưa Tin Mừng đến khắp các hang cùng ngõ hẻm, và nuôi dưỡng đời sống đức tin cho anh em mình, đó là các linh mục và tu sĩ Việt Nam. a. Hàng giáo sĩ Việt Nam. Năm 1668, đức cha Lambert đã đặt tay truyền chức cho bốn linh mục tiên khởi tại Juthia, Thái Lan là: Cha Giuse Trang, cha Luca Bền, (thuộc Đàng Trong) cha Bênêđictô Hiền, Gioan Huệ (thuộc Đàng Ngoài) và năm sau, thêm bảy tân linh mục khác thuộc Đàng Ngoài. Chín linh mục Đàng Ngoài đã cùng với Đức Cha Lambert và ba thừa sai, họp Công Đồng đầu tiên của Hội Thánh Việt Nam tại phố Hiến, tháng 2-1670. Các vị đã cùng nhau đưa ra một chương trình hoạt động, chia giáo xứ, chọn thánh Giuse làm bổn mạng, và ấn định việc đào tạo chủng sinh qua tổ chức nhà Đức Chúa Trời. Với tổ chức Nhà Đức Chúa Trời, từ nay, mỗi giáo xứ ổn định đều trở thành một "tiểu chủng viện" ươm trồng ơn gọi. Những người có khả năng sẽ được chọn gởi vào chủng viện, hoặc vào trường Kẻ Giảng để trở thành linh mục hoặc thầy giảng. Chính nhờ đó, Hội Thánh Việt Nam không bao giờ thiếu linh mục, kể cả trong những giai đoạn bách hại gay go nhất, khi toàn bộ các thừa sai bị trục xuất. Không kể các chủng viện liên địa phận tại Juthia (1665), Pondichéry, Ấn Độ (1769-1782), và Pénang, Mã Lai Á (từ 1807), đã có biết bao linh mục xuất thân từ các chủng viện: Miền Nam tại Hà Tiên (1776) dời lên Tân Triều, Biên Hòa (1778), rồi Mỹ Tho (1783), và Lái Thiêu (1789-1832). Miền Trung tại Thợ Đúc, Huế (1739-50), rồi Bình Định, mới đầu ở Dinh Cát (1782), sau ở Hòa Ninh (1784) và An Ninh (1801-20). Miền Bắc có chủng viện Nghệ An (1685). Kẻ Lô (1697). Kiên Lao (1683), Kẻ Cốc, Bắc Ninh (1684), Lục Thủy, Bùi Chu (1686) và Kẻ Bùi (1773). Sau này, mỗi địa phận mới được thành lập, lại đi kèm với các chủng viện mới. Thống kê sau đây cho ta thấy mức phát triển của hàng giáo sĩ Việt Nam qua các giai đoạn: 43 linh mục năm 1700, 119 vị năm 1800, 385 vị năm 1900, 1158 vị năm 1933 và năm 1963 số linh mục Việt Nam đã lên đến 2018 (393 linh mục Dòng) (10). b. Các dòng tu Việt Nam (thế kỷ XVII - XIX). "Hội Thánh Việt Nam từ thuở khai nguyên, đã được Thiên Chúa ban cho một quà tặng quý báu là Dòng Mến Thánh Giá, như một cánh tay hữu hình của Chúa Kitô, để cộng tác với Hội Thầy Giảng, hàng giáo sĩ bản quốc, và các quý chức xây dựng nhiệm thể Chúa Cứu Thế..." Dòng Mến Thánh Giá là hội dòng nữ đầu tiên mang bản sắc Á Châu và hướng hẳn về việc truyền giáo cho lương dân. Quả thực, ngay từ đầu năm 1670 (thứ tư Lễ Tro), Đức Cha Lambert đã nhận lời khấn của hai nữ tu tiên khởi Anê và Paula, tại Kiên Lao; đã soạn thảo và ban hành hiến pháp Dòng. Năm sau, ngài thiết lập thêm một cộng đoàn tại Quảng Ngãi. Kể từ đó, dần dần nữ tu Mến Thánh Giá có mặt trên các miền đất nước, giữ ba lời khấn, sống cộng đoàn và liên kết với nhau: giáo dục giới trẻ về văn hóa và đức tin, phục vụ bệnh nhân, bảo vệ trẻ thơ và góp phần thăng tiến nữ giới bằng giáo dục và hướng nghiệp (12). Năm 1854, Đức Cha Retord Liêu đã gửi tin về Châu Âu: "Dòng Mến Thánh Giá có 72 nhà, 1600 chị em; và đã rửa tội hơn 51.000 trẻ em hấp hối" (13). Tại miền Truyền giáo thuộc dòng Đaminh, ngoài các nữ tu Mến Thánh Giá, còn có đông đảo các chị em Đaminh Dòng Ba Sống Chung. Kể từ thời cha chính Bustamante Hy, nhà phước Đaminh đầu tiên được lập ở Trung Linh năm 1715. Về tinh thần, chị em học theo gương Thánh Phụ Đaminh vác các Thánh Dòng; về tổ chức, chị em như một tu hội có lời khấn tư, còn về hoạt động thì tương tự các nữ tu Mến Thánh Giá(14). Thống kê của cha chính Alonso Phê năm 1780 cho biết trong khu vực Đaminh có 5 nhà Mến Thánh Giá (48 dì) và 12 nhà nữ Đaminh (178 dì). Đến năm 1933, số nữ tu Đaminh tại bốn địa phận Dòng là 780 (15). Cuối thế kỷ XIX nhiều Dòng tu mới đã được thành lập tại Việt Nam: Dòng Nam gồm có: Kitô Vua, Cái Nhum (1870), Sư huynh Thánh Tâm Huế (1925), Thánh Giuse Nha Trang (1926), Qui Nhơn (1928), Đức Mẹ Đồng Công (1953); các tu hội: Nhập Thể Tận Hiến (1969), Thánh Gia Long Xuyên (1970), Nhà Chúa (1971), Đắc Lộ (1957), Gioan Tiền Sử (1974), Truyền Giáo Cần Thơ (1963), Gia đình Na-Gia (1964). Riêng Dòng Phước Sơn được lập năm 1920, đã gia nhập gia đình Xitô năm 1934, được nâng lên thành chi dòng Thánh Gia năm 1964 (gồm các Đan viện Phước Sơn 1920, Châu Sơn 1936, Phước Lý 1952, Châu Sơn Đà Lạt 1957 và Châu Thủy Bình Tuy 1972). Dòng Nữ gồm có: Con Đức Mẹ Vô Nhiễm (1920), Con Đức Mẹ Thăm Viếng (1937), Con Đức Mẹ Mân Côi (1946), Nữ Tu Ảnh Phép lạ Kontum (1947), Trinh Vương (1953), Khiết Tâm Nha Trang (1961), Tu hội Nữ Tÿ Đức Giêsu Linh Mục (1966, thành hội dòng 1987), Con Đức Mẹ Bình Thủy Cần Thơ (1967), Nữ Vương Hòa Bình (1969, Ban Mê Thuộc), Tu hội Nhập Thể Tận Hiến (1969). Ngoài ra còn một số tu hội thử nghiệm như: Tôi Tá Thánh Linh, Nữ Tÿ Thánh Tâm, Nữ Tá Truyền Giáo, Nữ Tu Lasan, Nô Tÿ Thiên Chúa, Nữ tu Thánh Thể, Chúa Hài Đồng, và một số các Gia Đình Bác Ái (Foyers de charité). 3. Dấn thân phục vụ con người Với tỷ lệ nhỏ nhoi trong cộng đồng dân tộc (16), Hội Thánh thực ra chỉ tham gia một phần nào với sự nghiệp chung của đồng bào. Thế nhưng, Hội Thánh vẫn canh cánh bên lòng mối bận tâm phục vụ cho công cuộc con người ngày càng tươi sáng, tiến bộ và bình an, đã để lại những chứng tá tập thể đặc biệt về mặt an sinh, giáo dục và bác ái từ thiện. Góp phần vào sự sống còn của quê hương, đã có không ít tín hữu tham gia quân đội của Tây Sơn, nhiều người còn giữ những vị trí chỉ huy (17). Trong phong trào yêu nước thời cận đại, sử sách ghi lại danh tính nhiều nhân vật, như linh mục Đặng Đức Tuấn, như Nguyễn Trường Tộ, linh mục Nguyễn Điều, Đội Vũ, Lãnh Phiên, thầy già Mai, lão Bang, hoặc các linh mục Đầu Quang Lĩnh, Nguyễn Tường, Nguyễn Thần Đồng... (18). Các vị đã đóng góp phần tim óc để "Hiến Bình Tây Sách" để "Tế cấp luận", và đóng góp phần xương máu trên những chặng đường dài đầy chông gai, để dành độc lập cho dân tộc. Trong hướng an sinh, các tín hữu cùng nhịp bước với mọi người trong bối cảnh kinh tế khó khăn: từ những đoàn người đông đảo theo chân cụ Nguyễn Công Trứ đến lập cư tại Tiền Hải, Kim Sơn, Thái Bình; cho tới những đoàn người theo kế hoạch của Chúa Nguyễn, đến an cư lập nghiệp ngay từ giai đoạn đầu Môi Xuy, Biên Hòa (19). Rồi qua những năm tháng lịch sữ, tương tự những đan việc thời Trung Cổ làm nên những làng mạc Âu Châu, các linh mục đã dẫn dân đi "lập trại" biến những khu vực hoang vu thành khu dân cư đông đảo, sinh hoạt sầm uất. Trong lãnh vực giáo dục và xã hội, hầu như bất cứ nhà thờ hay tu viện nào cũng kèm theo trường học và tổ chức bác ái từ thiện, như những lớp miễn phí, những bệnh viện hoặc trạm xá, xin đan cử một thống kê của các địa phần miền Trung và miền Nam vào năm 1969 (20). Các nhà thờ và dòng tu đã đảm nhiệm tất cả: 1030 trường tiểu học, với 345.756 học sinh (25% không công giáo). 226 trường trung học, 152.928 học sinh (46% không công giáo). 41 bệnh viện, với 7.000 giường. 239 trạm phát thuốc, 36 nhà hộ sinh, 29 nhà dưỡng lão. 9 trại phong, với 2.500 bệnh nhân. 82 cô-nhi-viện chăm sóc 11.000 em. Dĩ nhiên những con số ấy cũng chưa nhiều, nhưng cũng đủ nhắc nhở người tín hữu hôm nay, theo cách thế của mình, nối tiếp vào truyền thống mục vụ ấy. 4. Lớn lên trong thử thách Trước hiểm họa thực dân Pháp, triều đình Nhà Nguyễn phải chọn một trong hai con đường: hoặc là tiến hành cải cách trong nước , mở rộng bang giao để bảo toàn chủ quyền; hoặc là chìm đắm trong chính sách thủ cựu, tự cô lập, cố gắng duy trì chế độ quân chủ chuyên chế lạc hậu. Và triều đình đã chọn con đường thứ hai: dùng những điều luật hà khắc để trừng trị mọi hành vi bị coi như là chống đối, và thi hành những chính sách cấm đạo Giatô ngặt nghèo (21). Phân tích lý do việc cấm đạo là trách nhiệm của khoa lịch sử, trong khi đó, 14 chỉ dụ cấm đạo từ 1833-1862 là một thực tế lịch sử (22). Và, chính giữa bối cảnh khó khăn đó, niềm tin của người Kitô hữu được thanh luyện. Khi mà việc giữ đạo chẳng đem lại cho họ một lợi tức nào cụ thể, số Kitô hữu vẫn tiếp tục gia tăng, từ 320.000 năm 1800, lên 426.000 năm 1855. Số địa phận từ 3 nâng lên thành 8 địa phận năm 1850, và 13 địa phận năm 1933. Trong số những người đổ máu đào minh chứng cho niềm tin: 117 vị đã được suy tôn chân phước trong 4 đợt: Đức Lêô XIII suy tôn 64 vị năm 1900; Đức Piô X suy tôn 8 vị năm 1906, và 20 vị năm 1909; Đức Piô XII suy tôn 25 vị năm 1951. Thành Phần gồm 8 giám mục, 50 linh mục, 1 chủng sinh, 14 thày giảng và 44 giáo dân. Tất cả đã được Đức Gioan Phaolô II suy tôn Hiển Thánh ngày 19-6-1988. Các địa phận mới được thành lập trước 1933: Tại Đàng Ngoài: Vinh (1864), Bùi Chu (1848), Bắc Ninh (1833), Hưng Hóa (1895), Phát Diệm (1901), Lạng Sơn (1913), Thanh Hóa (1932). Địa phận Đàng Trong: năm 1844 được chia thành 2 địa phận Đông (Qui Nhơn) và Tây (Sài Gòn) tách ra thêm các địa phận Huế (1950), Nam Vang (1950) và Kontum (1932). Năm 1933, Hội Thánh Việt Nam có Giám Mục tiên khởi là Đức Cha J.B. Nguyễn Bá Tòng, khởi sự cho giai đoạn mới, giai đoạn tiến triển đến trưởng thành. III. Hội Thánh Việt Nam thời trưởng thành Việc thành lập hàng giáo phẩm địa phương, vốn là ước vọng của Thánh Bộ Truyền Giáo ngay từ bản huấn thị 1659, nhưng trong thực tế, phải đến thế kỷ XX mới thành sự thật. Năm 1846, Đức Piô IX đã đưa ra những chỉ thị rất cụ thể: "Phải hủy bỏ tập tục chỉ chấp nhận một hàng giáo sĩ bản xứ phụ thuộc. Những người làm việc Tin Mừng, dù thuộc xứ nào, đều bình đẳng" (23). Sau đó, Đức Lêô XIII đã đẩy công việc nhanh hơn bằng cách lập các Tòa Khâm Sứ, trước tiên là tại Ấn Độ (1884) rồi đến Hoa Kỳ và Canada (1898). Đến thời Đức Piô XI, Việt Nam có Tòa Khâm Sứ tại Huế năm 1925. Chính dưới thời Đức Piô XI, nhiều quốc gia thuộc miền truyền giáo có Giám mục: Ấn Độ (1923), Trung Hoa (1926), Nhật Bản (1927) và Việt Nam (1933). Đặc biệt kỳ đó, Tòa Thánh không chỉ hỏi ý kiến các thừa sai, mà cả ý kiến các linh mục Việt Nam tại Sài-gòn năm 1925, và tại Huế 1930. Kể từ đây sinh hoạt của các Hội Thánh Việt Nam linh động hẳn lên: đón nhận nhiều Dòng Tu quốc tế, thành lập và cải tổ các Dòng Tu trong nước, số linh mục Việt ngày càng đông đảo, số địa phận ngày càng gia tăng. Các địa phận mới được thiết lập là: Thái Bình (1936), Vĩnh Long (1938), Cần Thơ (1955) và Nha Trang (1957). 1. Ngày lịch sử 24-11-1960 Qua Tông Hiến Venerabilium Nostrorum, ngày 24-11-1960, Đức Gioan XXIII đã thiết lập thêm ba địa phận mới là Đà Lạt, Mỹ Tho và Long Xuyên, tuyên bố thiết lập ba Giáo Tỉnh (Hà Nội, Huế, Sài-gòn) và bổ nhiệm các Giám Mục chính tòa. Số giáo phận tại Việt Nam lúc này là 20, được phân chia như sau: Hà Nội 10, Huế 4 và Sài-gòn 6. Đứng đầu ba Giáo Tỉnh là ba Tổng Giám Mục Giuse Trịnh Như Khuê, Phêrô Ngô Đình Thục và Phaolô Nguyễn văn Bình. Chỉ trừ hai giáo phận Nha Trang (Đức Cha Piquet Lợi), và Kontum (Đức Cha Seitz Kim), 18 Giáo phận còn lại đều do các giám mục Việt Nam phụ trách. Việc thiết lập hàng giáo phẩm Việt Nam năm 1960 quả là một bước ngoặc đáng ghi nhớ. Hạt giống Tin Mừng đã được gieo trồng suốt bốn thế kỷ, nay đơm bông kết trái trong bối cảnh Công Đồng Vatican II đã đưa người người tín hữu Việt Nam vào trào lưu chung của Hội Thánh toàn cầu: trở về nguồn Tin Mừng và canh tân thích nghi với thời đại; cởi mở và đối thoại với mọi nền văn hóa, cùng chung âu lo và hy vọng với mọi người, để dấn thân phục vụ xã hội ngày càng đa dạng và phong phú hơn. 2. Nhìn lại một chặng đường ... Sau 1960, năm địa phận khác được thành lập là Đà Nẵng (1963), Xuân Lộc (1966), Phú Cường (1966), Ban Mê Thuộc (1967) và Phan Thiết (1975), nâng tổng số giáo phận Việt Nam hiện nay lên 25 địa phận (Hà Nội 10, Huế 6, Sài Gòn 9). Tính đến tháng 6-1992, Việt Nam đã có tất cả 67 giám mục (32 vị đã được Chúa gọi về). Từ năm 1975, trong bối cảnh đất nước thống nhất, Hội Thánh Việt Nam ở hai miền Nam Bắc được xum họp một nhà. Kể từ 1980, Đại hội các Giám Mục toàn quốc đã được tiến hành hằng năm, và Hội Thánh Việt Nam khẳng định ý muốn là "Hội Thánh Chúa Giêsu Kitô trong lòng dân tộc Việt Nam, để phục vụ hạnh phúc của đồng bào" (X. Thư chung 1980). Nhìn lại lịch sử hơn 300 năm, như Mẹ MARIA, người tín hữu Việt Nam cất cao lời ngợi khen và cảm tạ Thiên Chúa, vì khi quay nhìn quá khứ với cặp mắt đức tin, ta nhận ra Chúa hằng hiện diện và đồng hành với Hội Thánh trong từng bước đi, dù khi thành công hay thất bại, dù lúc chan hòa ánh sáng hay bóng tối đong đầy. Nhìn lại lịch sử hơn 300 năm, người tín hữu Việt Nam cũng ý thức rằng đức tin mà mình lãnh nhận, đã được gieo trồng và vun xới bằng mồ hôi và nước mắt; hơn nữa bằng cả máu đào của tiền nhân. Vì thế, phải hết sức trân trọng, gìn giữ và phát huy đức tin ấy bằng cả cuộc đời. Hơn thế nữa, nếu đức tin là hồng ân đã lãnh nhận xuyên qua gian khổ của tiền nhân, người tín hữu Việt Nam hôm nay phải tiếp tục công trình của cha ông trong nỗ lực truyền giáo, để tinh thần Phúc Âm được thấm nhập vào mọi thực tại xã hội, và quê hương Việt Nam thân yêu được phát triển theo hướng đi của Nước Trời, Nước Công Chính, Yêu Thương và An Bình. MARANATHA, Lạy Chúa GIÊSU, Xin Ngài Đến (Kh 22,20). CHÚ THÍCH: C.A. Poncet: la Princesse Marie, Bulle des Amis du Vieux Huế tháng 2-1941, tr. 351-358. Xin coi Hồng Lam, Lịch sử đạo Thiên Chúa ở Việt Nam, Huế 1944, giải thích của Cadière tr. 124-138. Các cha Dòng Tên đã xuất bản tự điển Bồ Hoa năm 1588, và tự điển La-Bồ-Nhật năm 1595. Nguyễn Hồng, Lịch Sử truyền giáo ở Việt Nam I, Hiện Tại 1959 tr. 68-76; 105-118. Đắc Lộ, Lịch sử xứ Đông Kinh, Lyon 1651, tr. 164. Nhờ việc xuất bản năm 1651 này, cha Đắc lộ vẫn được coi là Ông Tổ của chữ quốc ngữ. Thực ra, chính ngài trong lời dẫn của tập sách, đã nhắc đến công khởi sự của cha Pina, đến hai cuốn tự điển được soạn tại Macao của cha G.Amaral (tự điển Việt-Bồ) và cha Ant. Barbosa (tự điển Bồ Việt). Trong các tài liệu người Việt viết chữ quốc ngữ có hai lá thư của Bentô Thiện và Igessiô Văn Tín (1659) và "Truyện nước Annam Đàng Ngoài chí Đàng Trong" của linh mục Bỉnh viết tại Lisbone năm 1822 (x. Võ Long Tê, Lịch Sử Văn Học CGVN, Sài-gòn 1965 tr. 127 và 206 - Phan Phát Huờn, Việt Nam giáo sử I, Sài-gòn 1965, tr 138-139). Võ Long Tê, Sđd tr. 170-183. Nguyễn Hồng, Sđd tr. 122 ĐC Bùi Tuần, Ơn trở về, Đồng Nai 1991 tr. 15-16 Việt Nam Công Giáo Niên Giám 1964 tr. 156-157 và 504-505 Trích văn kiện châu phê Dòng MTG của ĐTGM Phaolô Nguyễn Văn Bình, 27.02.1990. Luật tiên khởi II, 2-5. Xc Hiến chương Dòng MTG, Đ. 96 tr. 86. Tam bách chu niên từ khi lập Dòng MTG, Sài-gòn 1970 tr.5. Angelo Walz OP. Compendium Historiae Ordinis Praedica-torum, đoạn 127.Các Giám Mục Đaminh thường gửi thư luân lưu chung cho hai Dòng, vì như ĐC Alonso Phê viết ngày 13-7-1791: "Vậy lề luật chị em Hãm Mình (Đaminh), và lề luật chị em Mến Câu Rút (MTG) dù khác nhau mặc lòng, song cũng tóm lại sự hãm mình cả. Vì kẻ Mến Câu Rút thì phải Hãm Mình, và kẻ hãm mình cho được phúc thì phải hãm mình vì Mến Câu Rút ...." Bùi Đức Sinh, Đaminh trên đất Việt I, tr 115; II tr. 127-156. Theo thống kê: - 1855 số tín hữu 426.000 tỷ lệ 4% - 1907 số tín hữu 872.400 tỷ lệ 7% - 1933 số tín hữu 1.297.000 tỷ lệ 9.9% - 1963 số tín hữu 2.388.000 tỷ lệ 8.27% - 1990 số tín hữu 4.342.000 tỷ lệ 6.86% Một số vấn đề lịch sử đạo Thiên Chúa. UBKHXH 1988, Mạc Đường tr. 69-70. Như trên, bài Chương thâu tr. 103-117. Launay, Histoire Générale de la Société des Missions Etrangères, Paris 1894. II tr. 125. ĐC Labbé viết năm 1710 rằng: "Người Việt đến Đồng Nai khoảng 40 năm trước. Trong số 20.000 người di cư, theo tôi có ít nhất 2.000 giáo dân". Linh mục nguyệt san 1970 số 105, tr. 618-619. x. Sách giáo khoa Lịch sử lớp 11, nxb Giáo Dục 1991, tr. 147-150. Một số vấn đề lịch sử đạo TC. UBKAXH 1988, tr,150-157. Collectanea S.C de Propaganda Fide, t.I tr. 541-545.       Bài 22 HIỆP THÔNG GIỮA CÁC THÁNH (x. SGLC từ 0946 đến 0962) "Hết thảy mọi người chúng ta, từng cấp bậc và cách thức khác nhau, đều hiệp thông trong cùng một đức mến Chúa yêu người, cùng hát lên một bài ca chúc tụng vinh quang Thiên Chúa chúng ta." "Vì tất cả những ai thuộc về Chúa Kitô và nhận lãnh Thánh Thần của Ngài, đều họp thành một Hội Thánh duy nhất và liên kết với nhau trong Ngài (Ep 4, 16). Bởi vậy sự hiệp nhất giữa những người còn sống trên dương thế với các anh em đã an nghĩ trong bình an của Chúa Kitô không hề bị gián đoạn" (GH 49). Khi dâng Thánh Lễ, bao giờ cộng đoàn tín hữu cũng dâng lời cầu nguyện cho Hội Thánh tại thế, đồng thời hướng tâm hồn đến những anh chị em tín hữu đã qua đời và cộng đoàn các Thánh trên trời. Cử chỉ ấy diễn tả cách gần gũi và sâu sắc mầu nhiệm Các Thánh Cùng Thông Công được tuyên xưng trong Kinh Tin Kính. Mầu nhiệm này vừa nói lên mối hiệp thông giữa những người thánh (sanctis) vừa diễn tả sự hiệp thông trong các của thánh (sancta) và hướng dẫn người tín hữu sống chiều kích Hội Thánh, vì Hội Thánh chính là hiệp thông. I. Hiệp Thông Ân Huệ Thiêng Liêng Sách Công Vụ Tông Đồ mô tả sinh hoạt của cộng đoàn Kitô hữu đầu tiên "Họ chuyên cần nghe các Tông Đồ giảng dạy, hiệp thông với nhau, siêng năng tham dự lễ bẻ bánh và cầu nguyện không ngừng... Tất cả các tín hữu hiệp nhất với nhau, để mọi sự làm của chung" (Cv 2, 42-44). Cộng Đoàn ấy là mẫu mực của một Hội Thánh sống mầu nhiệm hiệp thông: Hiệp thông trong Đức Tin, dựa vào giáo huấn của các Tông Đồ. Hiệp thông trong Đức Ái, chia sẻ với nhau của cải vật chất, đến nỗi "Không ai phải thiếu thốn" (Cv 4,34) và cả của cải thiêng liêng, vì "Nếu một bộ phận nào đau thì mọi bộ phận cùng đau. Nếu một bộ phận nào được vẻ vang thì mọi bộ phận cùng vui chung" (1Cr 12,26). Sự thánh thiện hay tội lỗi của một người đều ảnh hưởng đến cả cộng đoàn. Hiệp thông trong đời sống bí tích, đặc biệt là Bí Tích Thánh Thể, bí tích dưỡng nuôi và hoàn thành mối hiệp thông trong Hội Thánh. Hiệp thông trong Cầu Nguyện, nhờ có lãnh nhận các ân huệ Thánh Thần nhưng mọi ân huệ đều nhằm xây dựng lợi ích chung (1Cr. 12,7; GH 12). II. Hiệp thông giữa các Thánh. Trong cùng một Hội Thánh "có những kẻ còn tiếp tục cuộc hành trình nơi trần thế, có những kẻ đã hoàn tất cuộc sống này và đang được tinh luyện, và có những kẻ được hiển vinh, đang chiêm ngưỡng rõ ràng chính Thiên Chúa duy nhất trong Ba Ngôi như Ngài hằng có" (GH 49). Nhưng dù ở tình trạng nào, tất cả đều chia sẻ cùng một lòng yêu mến Thiên Chúa, và tha nhân, cùng là môn đệ Chúa Kitô và cùng được Thánh Thần hướng dẫn, nên tất cả họp thành một Hội Thánh duy nhất và liên kết với nhau trong Ngài. Chính vì thế, người tín hữu hướng tâm hồn lên Đức Trinh Nữ Maria, các Thiên Thần và toàn thể các Thánh trên trời. Hướng lên các ngài để "ngắm nhìn đời sống những người đã trung thành bước theo Chúa Kitô và khám phá ra một lý do mới thúc đẩy ta tìm kiếm Thành Thánh tương lai" (GH 50). Đồng thời để xin các ngài cầu thay nguyện giúp vì "Các Thánh không ngừng cầu bầu cho ta bên Chúa Cha... Các ngài đã phục vụ Chúa trong mọi sự và hoàn tất trong thân xác mình những gì còn thiếu sót trong cuộc khổ nạn của Chúa Kitô, hầu mưu ích cho Thân Thể Người là Hội Thánh (Cl 1,24). Do đó, với tình huynh đệ các ngài lo lắng giúp đỡ chúng ta rất nhiều vì chúng ta yếu hèn" (GH 49). Cũng trong mối hiệp thông ấy "Ngay từ buổi đầu của Kitô giáo, Hội Thánh lữ hành hết lòng kính nhớ, dâng lời cầu nguyện cho những người đã chết, vì cầu nguyện cho những người đã chết để họ được giải thoát là một ý nghĩ lành thánh" (2 Mcb 12, 46; GH 50). Lời cầu nguyện ấy không những giúp đỡ người đã chết được giải thoát khỏi tội lỗi, nhưng chính chúng ta cũng được hưởng nhờ lời chuyển cầu của các ngài.   III. Sống Mầu nhiệm Hiệp thông 1. Lòng mộ mến. Người tín hữu Việt Nam có lòng mộ mến các Thánh cách đặc biệt. Tuy nhiên sự mộ mến đó nhiều khi lại được thể hiện bằng những hình thức thái quá, đôi khi còn mang tính vụ lợi và lạm dụng. Vì thế cần phải ý thức rằng "việc tôn kính các Thánh đích thực không hệ tại nhiều ở những việc bề ngoài cho bằng ở cường độ tình yêu tích cực của chúng ta" (GH 51). Đồng thời việc tôn kính các Thánh "không làm suy giảm sự tôn thờ dành riêng cho Thiên Chúa Cha, nhờ Chúa Kitô, trong Chúa Thánh Thần, nhưng phải làm cho sự tôn thờ ấy thêm phong phú hơn (Ga 13,35) 2. Noi gương. Noi gương cộng đoàn tín hữu đầu tiên, người tín hữu cần thể hiện tinh thần hiệp thông ngay trong cộng đoàn mình đang sống, qua cử hành phụng vụ, qua sự đoàn kết yêu thương, qua sự chia sẻ của cải thiêng liêng cũng như vật chất. Cuộc sống hiệp thông đó của cộng đoàn cũng là phương cách tốt nhất để giới thiệu và làm chứng Tin Mừng Đức Giêsu "Ở điểm nầy, mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy: là anh em có lòng yêu thương nhau" (Ga 13,35).   Bài 23 ĐỨC MARIA LÀ MẸ HỘI THÁNH. (x. SLGC từ 0963 đến 0972) "Vì đã cưu mang, sinh hạ và nuôi dưỡng Chúa Kitô, đã dâng Chúa Kitô lên Chúa Cha trong đền thánh, và cũng đau khổ với Con mình chết trên thập giá, Đức Maria đã cộng tác cách rất đặc biệt vào công trình của Đấng Cứu Thế, nhờ lòng vâng phục, nhờ đức tin, đức cậy và đức ái nồng nhiệt, để tái lập sự sống siêu nhiên cho các linh hồn. Bởi vậy, trên bình diện ân sủng. Ngài thật là Mẹ chúng ta" (GH 61) Thiên Chúa nhân hậu và khôn ngoan khi muốn thực hiện công việc cứu chuộc thế giới vào thời cuối cùng, "đã sai Con mình tới, sinh làm con một người đàn bà" (Gl 4,4), và Người Con đó "đã nhập thể trong lòng Trinh Nữ Maria" (Kinh Tin Kính). Công việc cứu chuộc vẫn tiếp tục trong Hội Thánh, là thân thể Chúa Kitô. Trong thân thể này, Đức Maria có mặt như một chi thể trổi vượt, liên kết mật thiết với Đầu, và hằng yêu thương, bảo vệ hướng dẫn các chi thể khác là các tín hữu, với lòng của người mẹ hiền. I. Đức Maria là mẹ Hội Thánh. 1. "Khi sứ thần truyền tin, Đức Trinh Nữ Maria đã đón nhận Ngôi Lời Thiên Chúa trong tâm hồn và thân xác, và đem Sự Sống đến cho Thế gian" (GH 53). "Như thế, Đức Maria, con cháu Ađam, vì chấp nhận lời Thiên Chúa, đã trở nên Mẹ Đức Giêsu" (id 56). Mẹ đã liên kết mật thiết với Con từ lúc thưa tiếng "Xin Vâng" trong ngày truyền tin, kéo dài đến lúc Chúa Kitô chết trên thập giá. "Như thế, Đức Trinh Nữ cũng đã tiến bước trong cuộc lữ hành đức tin, trung thành hiệp nhất với Con cho đến bên thập giá, là nơi mà theo ý Thiên Chúa, Ngài đã từng ở đó" (Ga 19,25). Đức Maria đã đau đớn chịu khổ cực với Con Một của mình và dự phần vào hy lễ của Con, với tấm lòng của một người mẹ hết tình ưng thuận hiến tế hy vật do lòng mình sinh ra. Và cuối cùng chính Đức Giêsu Kitô khi hấp hối trên thập giá, đã trối Ngài làm mẹ của môn đệ qua lời này: Thưa bà, này là con Bà" (Ga 19,36-27; GH 58). Sau khi Đức Giêsu lên trời, Đức Maria đã ở giữa các Tông đồ, như người Mẹ "giữa một đàn em đông đúc" của Đức Giêsu (Rm 8,29), Con của Mẹ. Người cùng cầu nguyện với Hội Thánh sơ khai: "Tất cả các ông đều đồng tâm nhất trí, chuyên cần cầu nguyện cùng với mấy người phụ nữ, với bà Maria thân mẫu Đức Giêsu, và với anh em của Đức Giêsu" (Cv 1,14). Hơn nữa: "Đức Maria cũng tha thiết cầu xin Thiên Chúa ban Thánh Thần, là Đấng đã bao phủ lấy Người trong ngày Truyền Tin" (GH 59), và "ai nấy được tràn đầy ơn Thánh Thần" (Cv 2-4) trong ngày lễ Ngũ Tuần. Sau cuộc đời trần thế, Đức Maria đã được đưa lên trời cả hồn lẫn xác để hưởng vinh quang thiên quốc. Mẹ là người đầu tiên được tham dự vào cuộc Phục Sinh của Con Mẹ, và như vậy Mẹ là dấu chỉ báo trước và bảo đảm cho các Kitô hữu được sống lại với Chúa Kitô. 2. Hội Thánh chào kính Đức Maria như chi thể cao cả nhất, có một không hai và như gương mẫu sáng ngời về niềm tin và lòng mến (GH 53). Là mẹ Chúa Kitô, Đức Maria còn "là Mẹ các chi thể (của Thân thể Chúa Kitô), vì đã cộng tác trong đức ái để sinh ra các tín hữu trong Hội Thánh là những chi thể của Đầu ấy" (GH 53). Mẹ đã cộng tác đặc biệt với Đấng Cứu Thế "để đem lại sự sống siêu nhiên cho các linh hồn". Và mẹ luôn tiếp tục thiên chức làm mẹ "cho tới lúc vĩnh viễn hoàn tất việc cứu rỗi mọi người được tuyển chọn" (GH 623). Như vậy, ở trên trời Mẹ Maria không ngừng cộng tác vào chương trình cứu độ, bằng việc cầu bầu và chăm sóc các tín hữu "cho đến khi họ đạt tới hạnh phúc quê trời" (GH 62). II. Việc tôn kính Đức Trinh Nữ Maria. Ngay từ những thế kỷ đầu của Kitô giáo, Đức Trinh Nữ Maria đã được tôn kính với Tước Hiệu "Mẹ Thiên Chúa", và các tín hữu thường chạy đến với Mẹ "trong cơn gian nan thiếu thốn" (Kinh Trông Cậy). Hội Thánh luôn dành cho Đức Maria lòng yêu mến và tôn kính rất đặc biệt, vượt trên các thiên thần và các thánh. "Từ nay hết mọi đời, sẽ khen tôi diễm phúc, Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả" (Lc 1, 48-49). Việc tôn kính này hoàn toàn khác biệt với sự thờ phượng phải có đối với Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, nhưng lại "khuyến khích thêm việc thờ phượng Thiên Chúa Ba Ngôi" (GH 66). Bởi vì, Mẹ Maria chẳng có sứ mệnh nào khác hơn là dẫn đưa chúng ta tới Đức Giêsu Kitô Con của Mẹ. Vì thế "Hội Thánh khuyến khích hết mọi con cái hãy nhiệt tâm phát huy lòng sùng kính Đức Nữ Trinh nhất là trong Phụng Vụ", một lòng sùng kính không dựa trên tình cảm hay tính dễ tin "nhưng phát sinh từ một đức tin chân thật... thúc đẩy chúng ta lấy tình con thảo yêu mến và noi gương các nhân đức của Mẹ chúng ta" (GH 67). Lòng tôn kính và yêu mến này, chúng ta bày tỏ trong những ngày lễ kính Mẹ (nhất là lễ Đức Mẹ hồn xác lên trời ngày 15 tháng 8 và lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm ngày 8 tháng 12) các ngày thứ bảy, và đặc biệt là lần hạt Mân Côi, là Kinh "tóm tắt Phúc Âm" để suy niệm về cuộc đời Đức Giêsu cùng với Mẹ Maria. III. Đức Maria, hình ảnh Hội Thánh phải hoàn thành. "Như Thánh Ambrosiô đã dạy, Mẹ Thiên Chúa là mẫu mực của Hội Thánh trên bình diện đức tin, đức ái và hiệp nhất hoàn hảo với Chúa Kitô" (GH 63). Thật vậy, Mẹ Maria là hình ảnh của Hội Thánh tại thế "Hội Thánh vì ôm ấp những kẻ có tội trong lòng" (GH 8) hướng nhìn lên Đức Mẹ Vô Nhiễm nguyên tội, một phần tử ưu tú của mình, đã chiến thắng tội lỗi, nhờ hồng ân Chúa Kitô. Vì thế, Hội Thánh luôn luôn kiên trì và tin tưởng trong hành trình đức tin trên trần gian. Hơn nữa Hội Thánh còn ngắm nhìn Đức Maria như mẫu mực hoàn hảo mà mình phải đạt tới, để trở thành "một Hội Thánh xinh đẹp lộng lẫy, không tÿ ố, không vết nhăn, hoặc bất cứ một khuyết điểm nào, nhưng thánh thiện và tinh tuyền" (Ep 5,27). "Sẵn sàng như tân nương trang điểm để đón tân lang" (Kh 21,2). Do đó, Hội Thánh luôn hướng nhìn lên Đức Mẹ hồn xác lên trời, như phần tử đầu tiên vượt thắng cái chết mà sống lại trong vinh quang. Mẹ được Thiên Chúa tôn vinh trên trời, là dấu chỉ báo trước và đảm bảo ơn cứu độ vinh quang cho tất cả các phần tử khác của Hội Thánh. "Ngày nay, trên trời Mẹ Đức Giêsu đã được vinh hiển cả hồn và xác, là hình ảnh và khởi thủy của Hội Thánh phải hoàn thành đời sau; đồng thời, dưới đất này, cho tới ngày Chúa đến (2Pr. 3,10). Ngài chiếu sáng như dấu chỉ lòng cậy trông vững vàng và niềm an ủi cho dân Chúa đang lữ hành" (GH 68). Bài 24 ƠN THA TỘI (x SGLC từ 0976 đến 0983) "Người thổi hơi vào các ông và bảo: Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ" (Ga 20, 22-23) Chỉ một mình Thiên Chúa mới có quyền tha thứ tội lỗi, nhưng Chúa Kitô Phục Sinh đã ban quyền tha tội cho các Tông Đồ, khi thông ban Chúa Thánh Thần cho các ông. Thật ra, không phải các Tông Đồ thay thế Chúa Kitô để tha tội, nhưng chính Chúa Kitô có mặt và hoạt động trong các Tông đồ, như dụng cụ của Người, để tha thứ tội lỗi cho con người. I. Một Phép Rửa duy nhất để tha tội. Con người cần được tha thứ tội lỗi để có thể giao hòa với Thiên Chúa và được sống đời đời. Vì thế, Chúa Kitô đã tha thiết lập bí tích Thánh tẩy, như phương thế số một và chính thức để ban ơn tha tội, "Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo. Ai tin và chịu phép rửa, sẽ được cứu độ; còn ai không tin thì sẽ bị kết án" (Mc 16, 15-16). Qua thánh tẩy, người có tội được thông hiệp với mầu nhiệm Vượt Qua của Chúa Kitô, "Đấng đã bị trao nộp vì tội lỗi chúng ta, và đã được Thiên Chúa làm cho sống lại để chúng ta được nên công chính" (Rm 4, 25) và như vậy "chúng ta cũng được sống một đời sống mới" (Rm 6,4). Bí tích Thánh Tẩy không những tha thứ tội tổ tông, mà còn tha tất cả các tội riêng và các hình phạt do tội gây ra. Tuy nhiên, người đã chịu Thánh Tẩy vẫn còn mang bản tính yếu đuối và đã bị tổn thương, vẫn còn bị dục tình lôi kéo về sự ác. Ai có thể đứng vững mà chiến thắng các cơn cám dỗ trong suốt cuộc đời? Vì thế, Chúa Kitô còn để lại cho Hội Thánh bí tích sám hối, được gọi là đệ nhị Thánh Tẩy, nhằm tha thứ tội và ban ơn hòa giải cho những người sau khi lãnh bí tích Thánh Tẩy mà còn phạm tội. II. Quyền cầm buộc và tháo cởi của Hội thánh. Chúa Kitô đã ban "chìa khóa nước trời" cho Hội Thánh, để Hội Thánh được quyền nhận vào hay loại khỏi Nước Trời, quyền ra luật để cho phép điều này hoặc cấm đoán điều kia... trong những gì thuộc lãnh vực đức tin và luân lý - Đó là quyền cầm buộc và tháo cởi của Hội Thánh. "Thầy sẽ trao cho anh chìa khóa Nước Trời: dưới đất anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy; dưới đất anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy" (Mt 16,19). Vì thế, Hội Thánh có toàn quyền để tha thứ bất cứ tội nào dù nặng nề đến đâu. Một người dù phạm tội độc ác quái gở và có nhiều tội đến thế nào chăng nữa, vẫn có thể được tha thứ, nếu có lòng ăn năn thành thật. Trong khi dạy Giáo lý, phải làm cho người ta tin vào quyền năng tha thứ mọi tội lỗi của Hội Thánh mà Chúa Kitô Phục Sinh đã thông ban cho các Tông Đồ cũng như những người kế vị. "Mọi tội, kể cả tội nói phạm thượng, cũng sẽ được tha thứ cho loài người" (Mt 12,31). III. Hệ luận Mục Vụ. "Nếu trong Hội Thánh không có phép tha tội, thì sẽ không có sự trông cậy, không có hy vọng được sống muôn đời và được giải thoát vĩnh viễn. Chúng ta hãy cảm tạ Thiên Chúa đã ban một hồng ân lớn lao như thế cho Hội Thánh của Ngài" (Thánh Âu Tinh). Hãy lãnh nhận bí tích Sám hối với lòng biết ơn sâu xa. Và cần năng đi xưng tội không những để được tha tội và được tẩy xóa mọi tội, mà còn để nuôi dưỡng niềm hy vọng được sống đời đời. Chúa đã trao quyền cầm buộc và tháo cởi cho Hội Thánh, nên các tín hữu phải lấy lòng tôn kính và yêu mến, mà vâng phục các giáo huấn cũng như tuân theo kỷ luật Hội Thánh. "Với tinh thần vâng lời của người Kitô hữu, giáo dân cũng hãy mau mắn chấp nhận những điều mà chủ chăn có nhiệm vụ đại diện Chúa Kitô, đã quyết định với tư cách những thày dạy và những nhà lãnh đạo trong Hội Thánh (GH 37). Do đó, các giáo huấn chính thức về đức tin và luân lý cũng như các qui luật Phụng vụ của Đức Giáo Hoàng Rôma hoặc các Giám Mục thông hiệp với Đức Giáo Hoàng, cần phải được kính cẩn tuân phục và với tinh thần đức tin (GH 25). Bài 25 ƠN PHỤC SINH VÀ ĐỜI SỐNG VĨNH CỬU (x. SGLC từ 0992 đến 1065) "Chúng ta đang hành trình hướng về chung cục lịch sử nhân loại" (MV 45). "Chúng ta không biết được thời gian hoàn tất của trái đất và nhân loại... nhưng chúng ta biết Thiên Chúa đã dọn sẵn một chỗ ở mới và một đất mới... Khi ấy sự chết sẽ bị đánh bại, con cái Thiên Chúa sẽ phục sinh trong Chúa Kitô" (MV 39). "Đấng làm cho Đức Giêsu sống lại... cũng sẽ làm cho thân xác của anh em được sự sống mới" (Rm 3,11). I. Ý nghĩa của sự chết theo Kitô giáo. Chết là một sự thật hiển nhiên không ai thoát khỏi và chối cãi. Người Việt Nam thường nghĩ: xác là thể phách còn hồn là tinh anh, xác là thể phách nên phải chết, hồn là tinh anh nên còn. Tin tưởng này không ai lạ với niềm tin Kitô giáo: chết là hồn lìa khỏi xác, hồn là thiêng liêng nên bất tử, xác là vật chất nên hư nát. Chết là chấm dứt cuộc sống trần gian. Nhưng tại sao chết? Đó là bí ẩn cao nhất về thân phận con người (MV 18). Kitô giáo dạy rằng: Thiên Chúa sáng tạo con người là hồn và xác. Người không muốn con người phải chết, chết là hậu quả của tội lỗi (Rm 5,12). Khi Chúa Kitô đến trần gian, chấp nhận chịu chết vì muốn vâng phục thánh ý Chúa Cha, rồi được sống lại và về trời, Người đã biến đổi ý nghĩ sự chết. Do đó ai tin Chúa Kitô thì: "Chết là một mối lợi" (Pl 1,21) vì được ở với Chúa Kitô, theo nghĩa được hiệp thông trọn vẹn với Người mãi mãi (pl 1,23). Chết là sự sống được biến đổi: "Ai tin Chúa Kitô thì khi chết, sự sống không bị tiêu hủy mà được biến đổi để họ về hưởng phúc vĩnh cửu trên trời" (Kinh Tiền tụng I lễ Cầu Hồn). Như vậy, "phận con người là phải chết một lần rồi sau đó chịu phán xét" (Dt 9,27). Không có chuyện đầu thai sang kiếp khác. Nên Kitô hữu phải chuẩn bị cho giờ chết của mình để được chết lành, và xin Đức Maria chuyển cầu cho "khi này và trong giờ lâm tử". II. Sự sống lại của Chúa Kitô và của chúng ta. Việc xác sẽ sống lại vẫn là một điều xưa nay khó được chấp nhận, nhất là đối với con người sống trong thời đại khoa học kỹ thuật. Tuy nhiên trong Kinh Tin Kính, Kitô hữu tuyên xưng: Tôi tin xác loài người sẽ sống lại. Niềm tin này đã có từ thời Cựu Ước (2Mt ct 7,9-14) và được xác quyết mạnh mẽ khi Chúa Kitô tuyên bố: "Ta là sự sống lại và là sự sống" (Ga 11,25) "ai tin Ta"... "ai ăn thịt và uống máu Ta... Ta sẽ cho họ sống lại vào ngày sau hết" (Ga 6,54). Người cũng làm phép lạ cho một số người chết được sống lại (x. Lc7, 11-7 hoặc Ga 11) nhưng phép lạ này là dấu chỉ loan báo sự sống lại của Người, vì sự sống lại không có nghĩa là Người trở về đời sống như trước, nhưng là sau khi chết, hồn lìa xác, xác Người được an táng (x. Mt 27,5.59-60), ngày thứ ba Người sống lại với "xác vinh hiển" (Pl 3,21) để sống vĩnh cửu không bao giờ chết nữa. Sự sống lại của ta là gì? Khi ta chết, hồn lìa xác, xác bị hư nát, hồn gặp Chúa Kitô để được xét xử và nhận thưởng phạt, rồi đến ngày sau hết hồn được hiệp nhất với xác đã được biến đổi do quyền năng phục sinh của Chúa Kitô. Ai sẽ sống lại? Tất cả những ai đã chết, tuy nhiên không phải tất cả được vào Nước Trời, vì "ai đã làm điều lành thì sẽ sống lại để được sống, ai đã làm điều dữ thì sẽ sống lại để bị kết án" (Ga 5,29). Sống lại như thế nào? Sống lại với xác riêng của mình nhưng được biến đổi thành "xác có thần khí" (1Cr 14,44) không hư nát. Còn chuyện sống lại bằng cách nào thì vượt quá trí tưởng tượng và hiểu biết của ta. Sống lại khi nào? Sống lại vào ngày sau hết, ngày tận thế. Ngày Chúa Kitô quang lâm (1Tx 4,16). Vì thế, ta phải tôn trọng thân xác của mình cũng như của tất cả mọi người, đặc biệt những người đau khổ. Nghi thức an táng Kitô giáo chứng tỏ niềm tin về thân xác sẽ sống lại. III. Phán xét riêng. Chúa Kitô là Đấng cứu độ nên Chúa Cha trao cho Người quyền xét xử để thưởng phạt mọi người. Tân Ước nói đến việc thưởng phạt ngay sau khi con người chết, dựa vào dụ ngôn "người giàu và anh nghèo Ladarô" (x. Lc 16,22) và dựa vào lời Đức Giêsu nói với người trộm lành (x. Lc 23,43). Ngay sau khi chết, mỗi người được phán xét riêng tùy theo việc họ sống hiệp thông với Chúa Kitô, để hiệp thông với Thiên Chúa, với mọi người và vũ trụ vạn vật. Họ sẽ được thưởng hay chịu phạt; hoặc là chịu thanh luyện , hoặc được hưởng hạnh phúc Nước Trời, hoặc chịu phạt đời đời. IV. Trời hay Thiên Đàng. Những người đã chết trong ơn nghĩa Chúa và được thanh luyện toàn hảo thì được ở với Chúa Kitô muôn đời, nghĩa là được vào Nước Trời hay Thiên Đàng. Trời không phải ở bên trên tầng xanh nhưng là một tình trạng, "một cuộc sống hiệp thông trong sự sống và tình yêu với Thiên Chúa Ba Ngôi, với Đức Trinh Nữ Maria, các Thiên Thần, và tất cả mọi người lành thánh". Đó là cùng đích tối hậu, là sự hoàn thành mọi khát vọng sâu xa nhất của con người, là tình trạng hạnh phúc tuyệt vời và dứt khoát. Sự hiệp thông trong hạnh phúc với Thiên Chúa, trong Chúa Kitô, với mọi người lành và toàn thể tạo thành là một mầu nhiệm mà thánh Phaolô diễn tả là "mắt chưa thể thấy, tai chưa hề nghe, lòng người chưa hề nghĩ tới" 1Cr 2,9). Kinh thánh tìm cách diễn tả bằng những hình ảnh như: sự sống, ánh sáng, hòa bình, tiệc cưới, rượu trong Nước Trời, nhà của Chúa Cha, Giêrusalem trên trời.... V. Luyện ngục. Những người đã chết trong ơn nghĩa Chúa thì chắc chắn đã được cứu độ, nhưng nếu chưa được thanh luyện hoàn hảo thì phải được thanh luyện cho thật tinh tuyền. Hội Thánh quen gọi là thanh luyện nơi luyện ngục. Thực ra luyện ngục không phải là một nơi nào, nhưng là một tình trạng hồn phải thanh luyện. Giáo lý này dựa vào truyền thống thời Cựu Ước quen cầu nguyện cho những người đã chết (x. 2Mcb 12,46). Và ngay từ thời đầu, Hội Thánh đã quen kính nhớ người chết, đặc biệt là trong thánh lễ, để chuyển cầu cho họ. Hội Thánh còn khuyên ta bố thí, lãnh ân xá, và làm các việc hãm mình đền tội giúp cho họ sớm được vào Nước Trời. VI. Hỏa ngục. Những ai đã hoàn toàn cố tình không muốn hiệp thông với Chúa Kitô, là đã tự loại mình ra khỏi hiệp thông với Thiên Chúa và với mọi người làm thánh. đó là những người cố tình phạm tội nặng, xúc phạm đến Thiên Chúa, đến mọi người khác, đến vũ trụ vạn vật, mà không chút ăn năn hối cải, sau khi chết họ phải ở trong hỏa ngục đời đời. Đức Giêsu đã nhiều lần nhắc nhở tới hỏa ngục (x. Mt 5,22-29) đến "lửa không hề tắt" (Mt 3,12) đến nơi "khóc lóc nghiến răng" (Mt 13,42). Thực ra hỏa ngục không phải một nơi nào, mà là tình trạng con người luôn cảm nghiệm phải xa cách Thiên Chúa, là sự sống và hạnh phúc mà mình hằng khao khát, xa cách muôn trùng và muôn đời. Thiên Chúa không tiền định cho ai phải vào hỏa ngục (x. DS 397). Người luôn tôn trọng tự do mỗi người. chính mỗi người quyết định số phận vĩnh cửu của mình, nên Hội Thánh mời gọi mỗi người phải sử dụng tự do của mình với tinh thần trách nhiệm thật cao. VII. Phán xét chung. Đến ngày sau hết tất cả mọi người chết sẽ sống lại "người lành cũng như người dữ" (Cv 24,15). Chúa Kitô sẽ đến trong vinh quang có các Thiên Thần hộ tống để xét xử công khai mỗi người trước tất cả mọi dân mọi nước (x. Mt 25, 32-46). Người là Sự Thật nên sẽ làm cho toàn bộ sự thật về mối liên hệ của mỗi người với Thiên Chúa được phơi trần ra, cùng với mọi hậu quả tốt xấu của nó. Người sẽ cho ta hiểu biết ý nghĩa tối hậu của công trình sáng tạo và kế hoạch cứu độ, hiểu biết những đường lối kÿ diệu mà Thiên Chúa quan phòng đã dùng để dẫn đưa mọi sự tới đích tối hậu. Phán xét chung sẽ mặc khải cho biết sự công chính của Thiên Chúa toàn thắng những bất công do thụ tạo của Người đã phạm, và tình yêu của Người mạnh hơn sự chết. VIII. Trời Mới Đất Mới. Đến thời sau hết, Nước Trời sẽ đạt tới mức toàn hảo, toàn thể nhân loại và vũ trụ được biến đổi thành "Trời mới đất mới" (2Pr 3,13). Đối với con người, sự hiệp thông giữa con người với Thiên Chúa, với nhau và với vũ trụ vạn vật mà Thiên Chúa đã muốn từ khi tạo dựng, và Hội Thánh lữ hành là dấu chỉ và dụng cụ, sự hiệp thông đó nhờ Chúa Kitô sẽ đạt tới toàn hảo viên mãn "không còn chết chóc, khóc lóc, đau khổ nữa" (Kh 21,4) mà chỉ còn hiệp thông trong hạnh phúc và bình an vĩnh cửu. Còn vũ trụ vạn vật cũng được chung hưởng một số phận với những con người công chính, nghĩa là cũng đạt tới cùng đích toàn hảo viên mãn nhờ Chúa Kitô, không còn bị ô nhiễm, bị sử dụng vào chuyện xấu, "không phải lệ thuộc vào cảnh hư nát, mà được cùng với con cái Thiên Chúa chung hưởng tự do và vinh quang" (Rm 8,21). IX. Hạnh phúc Vĩnh cửu và Kitô hữu hôm nay. Người Việt Nam nào cũng mong được hạnh phúc, thích làm phúc, và muốn thoát khỏi vô phúc, cũng như tất cả mọi người ai cũng khao khát hạnh phúc. Chúa Kitô đã đến loan báo và bảo đảm về hạnh phúc thật, hạnh phúc ấy chỉ có trong Nước Trời. Và Nước Trời đây chính là sự hiệp thông giữa con người với Thiên Chúa Ba Ngôi, với nhau và với vũ trụ vạn vật trong tình yêu, hạnh phúc viên mãn và vĩnh cửu. Vì thế, Kitô hữu hôm nay cần quan tâm đến mấy điểm cụ thể sau đây: 1. Hạnh phúc đích thực và vĩnh cửu không thể có ở đời này. Vì con người mang khát vọng tuyệt đối, nên không có gì ở đời này có thể lắp đầy, không người nào và tập thể xã hội nào có thể mang lại hạnh phúc vĩnh cửu cho tất cả mọi người. Trái lại, chỉ một mình Chúa Kitô có thể thỏa mãn được khát vọng sâu sắc nhất của con người, vì chính Người đã chia sẻ thân phận con người, đã chết và sống lại, bước vào hạnh phúc vĩnh cửu trong Nước Trời. Người là khởi đầu và bảo đảm chắc chắn rằng có hạnh phúc đích thực vĩnh cửu trong Nước Trời. 2. Hạnh phúc đích thực và vĩnh cửu không phải là ảo tưởng Nhằm ru ngủ hay lừa dối con người sống tiêu cực thụ động, nhưng là một sự thật được Chúa Kitô mạc khải và thể hiện bằng chính cuộc sống của Người. Sự thật này không được làm suy giảm mối quan tâm của Kitô hữu để phát triển trái đất này, trái lại nó phải khơi dậy và kích thích mối quan tâm đó để họ làm cho các tiến bộ trần thế thực sự góp phần vào việc tổ chức xã hội loài người tốt đẹp hơn (x. MV 39). 3. Hạnh phúc đích thực và vĩnh cửu tùy thuộc vào Amen của Kitô hữu. Kinh Tin Kính kết thúc bằng Amen. Trong tiếng Do thái "Amen" có cùng một gốc với "tin", và gốc này có nghĩa là chắc chắn, có thật trung tín. Tôi tin là tôi Amen đối với mọi lời nói, lời hứa, và mọi điều răn của Thiên Chúa. Tôi tin chắc chắn vì Thiên Chúa là Amen (x.Is 65,16). Đấng trung tín, đáng tin cậy. Thiên Chúa lại biểu hiệu sự trung tín ấy nơi Con của Người là Chúa Kitô, nên Chúa Kitô cũng là Đấng Amen (x. Kh 3,14), là sự thật chắc chắn. Và Chúa Kitô đã dạy: "Tất cả những ai thấy Người Con, và tin vào Người Con thì được sống muôn đời, và Tôi sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết" (Ga ,40). Vì thế, Hội Thánh quen kết thúc mọi kinh nguyện bằng Amen, để biểu lộ và tuyên xưng niềm tin. Kitô hữu sống theo điều mình Amen là bảo đảm chắc chắn được hạnh phúc đích thực và vĩnh cửu.   Phần 2 CỬ HÀNH CÁC MẦU NHIỆM KITÔ GIÁO Trong phần 1 chúng ta tuyên xưng đức tin vào Chúa Ba Ngôi, vào kế hoạch cứu độ của Ngài, và những hồng ân quí giá Ngài ban cho nhân loại. Hồng ân vô giá Thiên Chúa ban cho nhân loại là Đức Giêsu Kitô, Con Một yêu dấu của Thiên Chúa. Người Con ấy là bằng chứng lớn lao nhất về tình thương Thiên Chúa dành cho con người (Ga 3,16). Ngài là "Lời cứu độ muôn dân, là cánh tay Cha mở rộng đón tiếp người tội lỗi, là con đường dẫn đưa chúng con tới bình an của Cha" (kinh Tạ ơn - Hòa giải 2). Chịu đóng đinh trên thập giá, Ngài đã "dang tay ra làm dấu hiệu giữa trời và đất, dấu hiệu không thể xóa nhòa về Giao Ước của Cha" (Kinh Tạ Ơn - Hòa Giải 1); nghĩa là Ngài đã hoàn thành công trình cứu độ nơi Mầu Nhiệm Vượt qua (Tử Nạn - Phục Sinh - Thăng Thiên). Sinh hoạt phụng vụ của Hội Thánh hôm nay chính là để công bố và cử hành Mầu nhiệm Vượt qua của Chúa Kitô; nhờ đó, tín hữu được sống và làm chứng cho Chúa Kitô. Vì thế, trong phần 2 này, chúng ta sẽ tìm hiểu ý nghĩa của Phụng Vụ và những cử hành Phụng Vụ, đặc biệt là các Bí Tích. Kinh bảy phép bí tích Đạo Đức Chúa Trời có 7 phép Bí Tích: Thứ Nhất là Phép Rửa Tội Thứ Hai là Phép Thêm Sức Thứ Ba là Phép Mình Thánh Chúa Thứ Bốn là Phép Giải Tội Thứ Năm là Phép Xức Dầu Thánh Thứ Sáu là Phép Truyền Chức Thánh Thứ Bảy là Phép Hôn Phối. Bài 26 PHỤNG VỤ (x. SGLC từ 1066 đến 1112) "Hội Thánh long trọng tuyên xưng đức tin qua Phụng Vụ. Trong Phụng Vụ, Chúa Cha được tôn thờ là cội nguồn và cùng đích các việc cử hành. Chúa Con tái diễn mầu nhiệm Vượt Qua để ở lại với Hội Thánh, Chúa Thánh Thần soi sáng Hội Thánh trở thành Bí tích phổ quát của ơn cứu độ. Còn Hội Thánh loan báo và cử hành Mầu nhiệm Vượt qua để các tín hữu sống và làm chứng mầu nhiệm ấy trong thế giới". (SGLC 1066). I. Tại sao có Phụng Vụ? Con người có nhiều mối liên hệ với nhau, như: vợ chồng, cha mẹ và con cái, trong gia đình; thày cô với học trò trong học đường, người dân với tổ tiên, với các anh hùng dân tộc, với các biến cố quan trọng của đất nước; ngoài ra còn có các liên hệ do tôn giáo, do nghề nghiệp... Các mối liên hệ này, được bày tỏ và duy trì bằng lời nói, cử chỉ, hành động, và được tổ chức trong các cuộc lễ hội. Truyền thống Á Đông chúng ta coi đó là lấy lễ nghĩa để bảo tồn tâm tình (Dĩ lễ tồn tâm). Trong Kitô giáo, thời Cựu Ước, công trình của Thiên Chúa thực hiện cho loài người và vũ trụ, được tiên báo qua những kỳcông vĩ đại của Người, như: sáng tạo, tuyển chọn dân Ít-ra-en, giải phóng dân khỏi nô lệ ai Cập. Và dân Ít-ra-en ghi nhớ các kỳ công đó để ca tụng, cảm tạ Thiên Chúa. Đến thời Tân Ước, công trình của Thiên Chúa được Chúa Kitô hoàn thành, đặc biệt bằng cuộc khổ nạn hồng phúc, cuộc phục sinh từ cõi chết và lên trời vinh hiển (x. PV 5). Đây chính là Mầu Nhiệm Vượt Qua của Chúa Kitô, Người thực hiện Mầu nhiệm này để cứu độ thế giới và tôn vinh Chúa Cha. Sang thời của Hội Thánh, mầu nhiệm này được loan báo và hiện tại hóa trong phụng vụ, để "các tín hữu đem cuộc sống mình diễn tả và biểu lộ cho những người khác mầu nhiệm Chúa Kitô và bản tính đích thực của Hội Thánh chân chính" (PV 2). Như vậy có Phụng vụ là để một đàng Thiên Chúa Ba ngôi tiếp tục thực hiện công trình cứu chuộc là thi ân giáng phúc cho mọi người (x. Ep. 1,9); đàng khác để Hội Thánh vừa cảm tạ Thiên Chúa về phúc lộc khôn tả của Người (2Cr. 9,15), vừa ca tụng vinh quang Người (Ep 1,6), vừa được hưởng nhờ những ân phúc ấy (PV 10). II. Chúa Cha: Là nguồn mạch và cùng đích phụng vụ. Tân Ước tuyên xưng và tôn thờ Chúa Cha là Đấng chúc lành và giáng phúc (x. Ep 1,3), nghĩa là Đấng ban sự sống, sáng tạo, nguồn mạch mọi ơn phúc trong suốt lịch sử cứu độ. Thực vậy, thời Cựu Ước, Chúa Cha thực hiện những kÿ công vĩ đại, giao ước với ông Abraham, cứu dân Ít-ra-en khỏi nô lệ ai cập. Vì thế, dân nhớ ơn và đáp trả bằng tôn thờ cảm tạ một mình Người. Thời Tân Ước, Chúa Cha sai Chúa Con xuống thế làm người, hoàn thành cuộc vượt qua cõi chết để sống lại vinh hiển, và đổ tràn ơn Cứu Độ cho mọi người. Người còn "nhờ Con của Người mà trao ban cho Hội Thánh ơn phúc chứa đựng mọi ơn phúc là Chúa Thánh Thần" (SGLC 1082). Vì thế, Hội Thánh hôm nay cử hành Phụng Vụ với Chúa Kitô, và nhờ tác động của Chúa Thánh Thần, để đáp trả tình thương của Chúa Cha. Trong Phụng Vụ, Chúa Cha được tuyên xưng và tôn thờ như nguồn mạch mọi chúc phúc cho nhân loại và vũ trụ, và mọi chúc tụng, tôn vinh của toàn thể Hội Thánh đều qui về cùng đích là Chúa Cha (x. Kinh Tán Tụng: chính nhờ Chúa Kitô ....) III. Chúa Con hoạt động trong phụng vụ 1. Khi còn sống trên trần gian, Chúa Kitô dùng lời giảng dạy để loan báo, và dùng mọi hoạt động để thực hiện trước Mầu Nhiệm Vượt Qua của Người (x. Mt 15,21 và Ga 11, 1-4). Khi đến giờ của Người, Người đã hoàn thành Mầu Nhiệm Vượt Qua bằng chịu chết, sống lại và về trời, "chỉ một lần là đủ" (Rm 6,12). Nhưng Mầu Nhiệm này không phải là một biến cố "như mọi biến cố lịch sử khác đã chìm vào quá khứ" (SGLC 1085). Trái lại, Mầu Nhiệm ấy vượt trên thời gian và luôn được Chúa Kitô hiện tại hóa trong Phụng Vụ (x.PV 6). 2. Khi về trời hưởng vinh quang bên hữu Chúa Cha, Chúa Kitô hiện tại hóa Mầu nhiệm Vượt qua bằng cách đổ tràn Thánh Thần trong Hội Thánh là thân thể Người, và sai các Tông Đồ, cũng như trao quyền thánh hóa cho các Ngài, để loan báo và cử hành Mầu nhiệm ấy. Rồi các Tông Đồ lại trao ban quyền thánh hóa ấy cho những người kế vị qua Bí Tích Truyền Chức (SGLC 1087). Như vậy trong phụng vụ ở trần gian, Chúa Con luôn ở với Hội Thánh: Người hiện diện trong Thánh Lễ, trong bản thân thừa tác viên, trong hình bánh hình rượu, trong các bí tích, trong khi công bố Lời Chúa, trong khi cầu nguyện và hát thánh vịnh (x. PV 7), và Hội Thánh luôn kết thúc các lời nguyện bằng câu: "Chúng con cầu xin nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng con". IV. Chúa Thánh Thần và Hội Thánh trong phụng vụ. Trong kế hoạch cứu độ, Chúa Thánh Thần luôn giữ vai trò làm cho Hội Thánh hiệp thông với sự sống và sứ mệnh của Chúa Kitô. 1. Chúa Thánh Thần chuẩn bị cho Hội Thánh tiếp nhận Chúa Kitô. Ngay từ thời Cựu Ước, Hội Thánh đã được "tiên báo bằng hình bóng, được chuẩn bị kỳ diệu trong lịch sử dân Ít-ra-en và trong giao ước cũ" (GH 2). Do đó, Hội Thánh đã giữ lại nhiều yếu tố trong việc tế tự của dân Ít-ra-en, như đọc "Kinh Thánh Cựu Ước", cầu nguyện bằng Thánh vịnh; và nhất là tưởng niệm những biến cố lớn có liên quan đến Mầu nhiệm Chúa Kitô, như giao ước với ông Abraham, xuất hành, vượt qua biển Đỏ... Chúa Thánh Thần đã lột màn che các hình bóng để ta hiểu: tàu ông Nôe thoát lụt hồng thủy tiên báo sự cứu độ do Bí tích Rửa Tội, Mana trong sa mạc tiên báo "bánh thật bởi trời" (Ga 6,32) là Chúa Kitô trong Bí Tích Thánh thể. Hội Thánh còn tổ chức Mùa Vọng, Mùa Chay, canh thức Phục Sinh để sống lại những biến cố lớn của Giao ước cũ. 2. Chúa Thánh Thần nhắc nhở Mầu nhiệm Chúa Kitô: Chúa Thánh Thần "sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em" (Ga 14,26) nghĩa là trong Phụng vụ, Chúa Thánh Thần giúp cho cả người công bố hay giảng giải Lời Chúa, cũng như mọi người lắng nghe, được hiểu biết Lời Chúa và hiệp thông với Chúa Kitô hơn, để cùng nhau đáp ứng bằng một niềm tin sâu sắc hơn: "Chính lời Cứu rỗi nuôi dưỡng đức tin trong tâm hồn các tín hữu: chính đức tin này khai sinh và phát triển sự hiệp thông giữa các tín hữu" (LM 4). Người cũng giúp cả cộng đoàn nhớ lại những kÿ công Chúa Kitô đã thực hiện cho ta, vì "kế hoạch mặc khải được thực hiện bởi cả việc làm lẫn lời nói, cả hai gắn bó chặt chẽ với nhau... Lời nói công bố việc làm và giúp khám phá ra mầu nhiệm chất chứa trong đó". (MK 2). Chúa Thánh Thần nhắc cho Hội Thánh nhớ, để Hội Thánh cảm tạ và tôn vinh Thiên Chúa. Vì thế trong Thánh Lễ, sau Kinh Truyền Phép là Kinh Tưởng Niệm (Anamnèse) và Kinh Tán tụng: Chính nhờ Chúa Kitô...... 3. Chúa Thánh Thần hiện tại hóa Mầu nhiệm Chúa Kitô: Mầu nhiệm Chúa Kitô được Hội Thánh cử hành, và mỗi khi cử hành thì Chúa Thánh Thần hiện tại hóa Mầu nhiệm đó. Trước khi truyền phép, chủ tế đọc kinh khẩn cầu (Epiclèse), Chúa Thánh Thần biến đổi lễ vật trở thành Mình Máu Chúa Kitô, để tín hữu có thể hiệp thông với Chúa Kitô, nếm trước cuộc hiệp thông viên mãn với Thiên Chúa Ba Ngôi. Sứ mệnh của Chúa Thánh Thần trong Phụng Vụ là hiệp thông. Hội Thánh cầu chúc: "Ân sủng của Đức Giêsu Kitô, tình yêu của Chúa Cha, và ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thần" (2Cr 13,13) đầy tràn trong cộng đoàn, để mọi người trở nên đồng hành đồng dạng với Chúa Kitô, xây dựng sự hiệp nhất trong Hội Thánh, và tham gia sứ mệnh của Hội Thánh bằng chứng tá và hoạt động bác ái. V. Phụng vụ là gì? Phụng vụ dịch từ tiếng Hy lạp "leiturgia" nghĩa gốc là hoạt động công cộng, dịch vụ cho dân chúng. Truyền thống Kitô giáo hiểu đó là việc Dân Thiên Chúa tham gia công trình của Thiên Chúa (x. Ga 17,4). Trong Tân Ước, Phụng Vụ có ý chỉ không những việc thờ phượng Thiên Chúa, mà cả việc loan báo Phúc Âm (x.ra 15,16) và thi hành bác ái nữa (x. Rm 15,27), nghĩa là bao gồm việc phục vụ Thiên Chúa và phục vụ mọi người. Phụng vụ mang nhiều ý nghĩa và đặc tính phong phú, có thể tóm lại như sau: 1. Phụng vụ để cảm tạ tôn vinh Thiên Chúa Ba Ngôi. Phụng vụ là việc thờ phượng mà Hội Thánh dâng lên Chúa Cha, để cảm tạ về phúc lộc khôn tả Người đã ban trong Đức Giêsu Kitô, và để ca tụng sự vinh hiển của Người, nhờ quyền năng Chúa Thánh Thần (PV 6). 2. Phụng vụ là một hoạt động công cộng toàn hảo. Phụng vụ là việc Hội Thánh tham dự chức tư tế (thờ phượng), ngôn sứ (loan báo Lời Chúa) và vương giả (phục vụ bác ái) của Chúa Kitô, nghĩa là không phải việc của một cá nhân hay một nhóm người, nhưng là việc của toàn thể Hội Thánh, dầu thừa tác viên của Hội Thánh chỉ cử hành một mình mà thôi, song họ cử hành nhân danh nhiệm thể Chúa Kitô, gồm cả Đầu và các chi thể. "Không một hành vi nào khác của Hội Thánh có hiệu lực bằng" (PV 7). 3. Phụng vụ được diễn đạt Bằng những dấu chỉ khả giác, bao gồm lời nói, cử chỉ và các biểu tượng, như: bánh, rượu, nước, dầu... và được thể hiện cách khác nhau, theo từng dấu chỉ, như: các Bí Tích, Lời Chúa, lời cầu nguyện, và hát Thánh vịnh (PV 7). 4. Phụng vụ giúp Tăng cường đức tin, củng cố đức Cậy và phát huy đức Mến cho tín hữu, để chính đời sống họ có thể biểu hiện Hội Thánh như dấu hiệu hữu hình của mối hiệp thông giữa Thiên Chúa, với con người và với vũ trụ vạn vật, nhờ biết sống hiệp thông trong tình yêu, và ăn ở xứng đáng với ân huệ họ lãnh nhận. (PV 10). 5. Phụng vụ có tính cách chung. Phụng vụ làm cho tín hữu đang lữ hành trên trần thế, được cảm mến trước Phụng Vụ trên trời: "Phụng vụ trần gian là nơi chúng ta hợp cùng toàn thể đạo binh trên trời đồng thanh ca ngợi tôn vinh Chúa... Chúng ta mong đợi Đấng Cứu Thế là Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta, cho đến khi chính Người là sự sống chúng ta sẽ xuất hiện với Người trong vinh quang" (PV 8). VI. Kitô hữu với phụng vụ Kitô hữu Việt Nam đang sống trong lòng một dân tộc có nhiều lễ hội phong phú, như: lễ Tết Nguyên Đán, lễ Tết Trung Thu, lễ giỗ tổ Hùng Vương, lễ kỷ niệm các anh hùng dân tộc, lễ cưới, lễ giỗ, lễ an táng... Kitô hữu cũng đang sống trong Hội Thánh có nhiều lễ Phụng vụ đầy ý nghĩa sâu sắc như: lễ Giáng Sinh, nhất là Tuần Thánh và lễ Phục sinh, các lễ kính Đức Maria, kính các Thánh... Khi Kitô hữu tham dự các lễ hội của dân tộc, hoặc lễ Phụng Vụ, cần tìm hiểu và suy nghĩ để áp dụng nguyên tắc "dĩ lễ tồn tâm" cho hợp với tinh thần Kitô giáo. 1. Nhờ lễ nghĩa để bảo tồn chân tâm: Lễ nghĩa đây không phải chỉ là nghi lễ bề ngoài với những lời nói suông, những cử chỉ hành động theo thói quen máy móc hoặc giả tạo, những hình thức có tính dị đoan mê tín (tin tưởng mù quáng nhảm nhí). Lễ nghĩa đích thực bao gồm lời nói, cử chỉ hành động phát xuất từ lòng thành, từ chân tâm. Tâm là tim, là lòng, có ý chỉ tinh thần, tình nghĩa, tình cảm đối với người khác, với gia đình hay dân tộc... bao gồm lòng biết ơn, trân trọng, yêu thương, để đền đáp ơn đáp nghĩa. Cái tâm ấy phải chân thành và chung thủy. Chân tâm là lòng thành, và lòng thành làm cho nghi lễ có tình nghĩa chân thật, không giả dối giả hình. 2. Nhờ phụng vụ để "thờ phượng Chúa Cha trong Thần khí và sự thật" (Ga 4,23). Phụng vụ cũng dùng những lễ nghĩa do Chúa Kitô thiết lập và chủ động, nhờ quyền năng Chúa Thánh Thần, để duy trì và bảo tồn cho mọi người trong Hội Thánh cùng có một tấm lòng thành, một chân tâm, vừa biết đón nhận mọi hồng ân cứu độ của Chúa Cha, với tâm tình cảm tạ tôn vinh trong Thần khí và sự thật, vừa biết thông truyền những hồng ân đó cho thế giới một cách hữu hiệu. Vì thế, Kitô hữu phải tham dự Phụng vụ "một cách có ý thức, chủ động và hữu hiệu" với "một tâm hồn chuẩn bị sẵn sàng, chân thật, hòa hợp tâm trí mình với ngôn ngữ, và cộng tác với ân sủng trên trời" (PV 11). Nhờ đó, Kitô hữu có thể "sống hiệp thông trong tình yêu với Thiên Chúa và mọi người... được nung nấu và lôi cuốn vào trong tình yêu thúc bách của Chúa Kitô" (PV 10), để trong đời sống thường ngày họ luôn "giữ trọn những điều Chúa Kitô đã dạy (Mt 25,20) và tham gia mọi công cuộc bác ái, đạo đức và tông đồ (PV 9). Bài 27 BÍ TÍ CH (x. SGLC từ 113 đến 1134) "Như Chúa Kitô được Chúa Cha sai đi thế nào, thì chính Người cũng sai các Tông đồ đi như vậy... để các ngài thực thi công việc cứu chuộc mà các ngài loan báo, nhờ Hiến tế Thánh Thể và các Bí tích, trung tâm điểm của toàn thể đới sống Phụng vụ" (PV 6). Bí tích chiếm vị trí quan trọng trong sinh hoạt Phụng vụ của Hội Thánh. Có 7 Bí tích: Thánh Thẩy, Thêm sức, Thánh Thể, Hòa giải, Xức dầu bệnh nhân, Truyền chức thánh và Hôn phối. Trước khi tìm hiểu từng Bí tích cần có cái nhìn tổng quát về ý nghĩa của Bí tích trong kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa. I. Bí Tích của Chúa Kitô Gọi Bí Tích là Bí tích của Chúa Kitô vì "tất cả các Bí tích của luật mới đều do Đức Giêsu Kitô thiết lập" (DS 1600-1601). Tất cả mọi lời nói và hành động của Đức Giêsu trong cuộc sống trần thế đã mang giá trị cứu độ. Những lời nói và hành động ấy thực hiện trước năng lực của Mầu Nhiệm Vượt Qua. Và khi mọi sự được hoàn thành, Ngài trao ban năng lực ấy cho Hội Thánh, để rồi qua các thừa tác viên trong Hội Thánh, Chúa Kitô tiếp tục ban phát năng lực cứu độ cho con người khi họ lãnh nhận Bí tích. Vì thế, các Bí tích là những kÿ công của Thiên Chúa trong Giao ước mới và vĩnh cửu. II. Bí Tích của Hội thánh Chúa Kitô đã không ấn định cách minh nhiên (rõ ràng) con số 7 của Bí tích. Nhưng theo dòng thời gian, trong sự hướng dẫn của Thánh Thần và với tư cách là người quản lý trung thành các Mầu nhiệm của Thiên Chúa (1Cr 4,1), Hội Thánh đã xác định 7 Bí tích. Hội Thánh cử hành Bí tích qua các thừa tác viên của mình, nhờ Bí tích Thánh tẩy, mọi tín hữu được tham dự vào chức năng tư tế của Chúa Kitô. Ngoài ra, nhờ Bí tích Truyền Chức Thánh, còn có một số tín hữu lãnh nhận chức tư tế thừa tác, bắt nguồn từ sứ mạng Chúa Kitô trao phó cho các Tông đồ, và các Tông đồ trao lại cho các người kế vị. Vì thế, thừa tác viên cử hành là sợi dây nối kết hành động Bí tích với chính Chúa Kitô, suối nguồn và nền tảng mọi Bí tích. Ngoài ân sủng được trao ban, khi lãnh nhận ba Bí tích Thánh Tẩy, Thêm Sức và Truyền Chức Thánh, người tín hữu còn được ghi dấu đặc biệt, gọi là Tích Ấn, nhờ đó họ tham dự vào chức tư tế của Chúa Kitô và đời sống Hội Thánh, với những nhiệm vụ khác nhau. Tích Ấn là dấu không thể xóa nhòa, và vì thế, đối với 3 Bí tích này, người tín hữu chỉ lãnh nhận một lần mà thôi. III. Bí Tích Đức Tin Bí tích còn được gọi là Bí tích Đức Tin, vì lãnh nhận Bí tích giả thiết phải có đức tin, đồng thời cử hành Bí tích là diễn tả và nuôi dưỡng đức tin. Khi Chúa Kitô trao phó sứ mạng cho các tông đồ, Ngài nói: "Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép Rửa cho họ, nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần" (Mt 18, 18-20). Như thế, để được thanh tẩy, nghĩa là cử hành Bí tích, phải được nghe Lời Chúa và qui thuận với Lời, tức là đức tin. Đồng thời, khi cử hành Bí tích, Hội Thánh tuyên xưng đức tin được đón nhận từ các Tông đồ, vì thế mới có câu "Lex orandi, lex credendi" (Luật cầu nguyện là Luật tin). Hội Thánh tin khi Hội Thánh cầu nguyện và cử hành Bí tích. Và khi người tín hữu lãnh nhận Bí tích Hội Thánh cử hành, đức tin của họ được nuôi dưỡng và phát triển. IV. Bí tích ban ơn cứu độ và sự sống đời đời. Thánh Âu Tinh định nghĩa Bí Tích là Dấu chỉ hiệu nghiệm, vì không những Bí tích là dấu chỉ hữu hình diễn tả ân sủng vô hình, mà Bí tích còn chuyển thông ân sủng nữa. có được như thế, là vì chính Chúa Kitô hành động trong Bí tích nhờ Thánh Thần của Ngài (PV 7). Cũng vì thế, hiệu quả của Bí tích được gọi là Hiệu quả do sự (ex opere operato), nghĩa là do chính việc cử hành Bí tích phù hợp với ý muốn của Hội Thánh, chứ không phải do sự thánh thiện của cá nhân thừa tác viên cử hành. Tuy nhiên hiệu quả của Bí tích cũng còn tùy thuộc vào thái độ và tình trạng của người lãnh nhận. Hội Thánh xác quyết rằng: đối với người tín hữu, các Bí tích của Giao Ước mới cần thiết để được cứu độ. Ân sủng Bí tích chính là Thánh Thần làm cho ta nên con cái Thiên Chúa, giúp ta được kết hợp với Đấng Cứu độ, và được thần hóa, được tham dự vào sự sống của chính Thiên Chúa (x. 2Pr. 1,4). Cũng vì thế, khi nhận lãnh ân sủng Bí tích, ta đã được tham dự vào sự sống đời đời ngay từ bây giờ "trong khi mong đợi niềm hy vọng hồng phúc và ngày Đức Giêsu Kitô, Đấng cứu độ chúng ta ngự đến" (Tt 2,13). Maranatha, "Lạy Đức Giêsu, xin ngự đến" (Kh 22,20). V. Bí tích trong đời sống Kitô hữu. Bảy Bí tích trải suốt cuộc sống con người, và thánh hóa những thời điểm quan trọng nhất của đời người: sinh ra, lớn lên, trưởng thành, lìa đời. Như thế, qua cử hành Bí tích, ở những thời điểm quyết định nhất, và mỗi ngày, Chúa Kitô nói với ta: "Cha ở với con". Ngày xưa Chúa Kitô đã ở với những người cùng thời để chữa lành bệnh tật, xoa dịu khổ đau, thứ tha tội lỗi, tặng ban sự sống. Ngày nay, Chúa Kitô vẫn tiếp tục ở với ta, và có ngài là có tất cả. "Tôi coi tất cả như đồ bỏ, để được Chúa Kitô, và được kết hợp với Ngài" (Phil 3,8-9). Ý thức đó thúc đẩy ta đón nhận và cử hành các Bí tích với tất cả đức tin, để đi vào cuộc gặp gỡ chính Chúa Kitô qua Hội Thánh, cuộc gặp gỡ hồng phúc, vì là cuộc gặp gỡ ban Ơn Cứu Độ. Bài 28 HỘI THÁNH CỬ HÀNH PHỤNG VỤ (x. SGLC từ 1136 đến 1209) "Phụng vụ là tột đỉnh qui hướng mọi hoạt động của Hội Thánh, đồng thời là nguồn mạch tuôn trào mọi năng lực của Hội Thánh.... Nhưng muốn thâu đạt được hiểu năng toàn vẹn ấy, tín hữu cần đến tham dự Phụng vụ Thánh với tâm hồn chuẩn bị sẵn sàng, ngay thẳng, hòa hợp với tâm trí mình, với ngôn ngữ, và cộng tác với ân sủng trên trời, để đừng nhận lãnh ơn sủng đó cách vô ích". (PV 10.11) I. Ai cử hành? Phụng vụ là hành động của Chúa Kitô toàn thể, nghĩa là gồm cả Đầu cùng các chi thể của Ngài (PV 7). Có những chi thể đang được chung hưởng hạnh phúc trọn vẹn với Thiên Chúa, ở đó, các ngài cử hành Phụng vụ Thiên quốc nhờ Chúa Kitô "đang ngự bên hữu Thiên Chúa như thừa tác viên của Cung Thánh, của Nhà Trạm đích thực" (PV 7). Còn Phụng vụ trần gian là nơi chúng ta tham dự bằng cảm mến trước Phụng vu Thiên quốc, nơi chúng ta hợp cùng toàn thể đạo binh trên trời đồng thanh ca ngợi tôn vinh Chúa. Vì Phụng vụ là hành động của Chúa Kitô toàn thể, nên sinh hoạt phụng vụ không phải là sinh hoạt riêng tư, nhưng là những cử hành của Hội Thánh. Cũng chính vì thế, Hội Thánh khuyến khích việc cử hành cộng đồng hơn là cử hành đơn độc, và có vẻ riêng tư (PV 26-27). Cộng đoàn cử hành phụng vụ là cộng đoàn những người đã được rửa tội và được chia sẻ chức năng tư tế của Chúa Kitô (GH 10). Tuy nhiên khi cử hành, không phải ai cũng có chức năng như nhau. Các Giám mục, Linh mục và phó tế là những người được tuyển chọn và thánh hiến qua Bí tích Truyền Chức Thánh; vì thế, các ngài hành động nhân danh Chúa Kitô là Đầu, để phục vụ cho mọi chi thể. Ngoài ra, còn có các thừa tác vụ khác: đọc sách, dẫn giải, giúp lễ, ca đoàn. Tất cả mọi người "chỉ thi hành trọn những gì thuộc lãnh vực của mình tùy theo bản chất sự việc và những qui tắc phụng vụ" (28). II. Cử hành thế nào? 1. Dấu chỉ và biểu tượng: Dấu chỉ và biểu tượng đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống và sinh hoạt của con người. Vì vừa có tinh thần, vừa có thể xác, con người diễn tả nội dung tinh thần qua những dấu hiệu của thân xác và vật chất. Đồng thời những dấu hiệu đó còn là phương thế để con người trao đổi, giao tiếp với tha nhân. Khi Thiên Chúa nói với con người, Ngài cũng nói qua các tạo vật hữu hình. Qua thế giới vật chất, con người nhận ra quyền năng và tình thương của Thiên Chúa. Cũng vì thế, những thực tại vật chất có thể trở thành phương thế diễn tả hoạt động của Thiên Chúa thánh hóa con người: dội nước, xức dầu, bẻ bánh. Trong Cựu Ước, dân Chúa lãnh nhận từ Thiên Chúa những dấu chỉ và biểu tượng đặc biệt, diễn tả giao ước cũng như kÿ công của Thiên Chúa. Có thể nhắc đến những dấu chỉ và biểu tượng: cắt bì, xức dầu, đặt tay, hiến lễ, và đặc biệt là lễ Vượt Qua. Khi Chúa Kitô đến, Ngài đã dùng những hình ảnh trong sinh hoạt đời thường của con người, để giúp họ hiểu về Nước Trời; Ngài đã thực hiện các phép lạ qua những cử chỉ biểu tượng và dấu chỉ thể lý. Đồng thời Ngài mang lại ý nghĩa mới cho những dấu chỉ thời Cựu ước. Ngày nay, Chúa Thánh Thần tiếp tục thực hiện công cuộc thánh hóa ngang qua các dấu chỉ Bí tích. Các dấu chỉ này được lấy ra từ sinh hoạt thiên nhiên và đời sống xã hội cũng như từ Cựu Ước, nhưng Hội Thánh thanh tẩy chúng để diễn tả và hiện tại hóa công cuộc cứu độ của Chúa Kitô. 2. Lời và hành động: Cử hành Bí tích là thực hiện cuộc gặp gỡ và đối thoại giữa Thiên Chúa là Cha, và chúng ta là con cái. Cuộc gặp gỡ và đối thoại ấy được thể hiện qua lời nói và hành động. Vì thế, trong cử hành Bí tích, phụng vụ Lời Chúa và những cử chỉ gắn liền với nhau: lời diễn tả ý nghĩa của hành động, và hành động thực hiện nội dung của lời. Để nuôi dưỡng đức tin của tín hữu, cần nhấn mạnh đến những dấu chỉ kèm theo việc công bố Lời như: Rước sách Lời Chúa, Nơi công bố Lời, bài giảng của chủ tế, lời đáp trả của cộng đoàn. 3. Thánh nhạc trong Phụng vụ: Ngay từ trong Cựu Ước, cử hành Phụng vụ đã gắn liền với việc hát Thánh vịnh, cùng với nhạc khí kèm theo; và Hội Thánh tiếp nối truyền thống tốt đẹp này. Để thực hiện đúng chức năng của mình, Thánh nhạc phải hội đủ ba yếu tố cần thiết: giúp phát triển lời cầu nguyện, cổ võ sự đồng thanh nhất trí của cộng đoàn, và làm cho các nghi lễ thêm phần long trọng (PV 112). Hội Thánh cũng khuyến khích việc đưa âm nhạc truyền thống của mỗi dân tộc vào cử hành phụng vụ, và nhờ đó cử hành phụng vụ sẽ sinh động và ích lợi hơn. "Phải quí trọng âm nhạc ấy đúng mức, và dành cho nó địa vị thích hợp; đồng thời đào tạo cho họ có một quan niệm tôn giáo, cũng như thích ứng năng khiếu của họ vào Phụng vu (PV 119). 4. Ảnh tượng: Mục đích của ảnh tượng là để trình bày Chúa Kitô, Thiên Chúa làm người, và sứ điệp Tin Mừng của Ngài. Những ảnh tượng tôn kính Mẹ Maria và các Thánh cũng qui về mục đích ấy. Chiêm ngắm ảnh tượng cùng với suy gẫm Lời Chúa và hát thánh thi phụng vụ, tất cả tạo nên sự hài hòa nhằm đưa mầu nhiệm được cử hành vào sâu trong tâm khảm người tín hữu, để rồi được diễn đạt ra trong cuộc sống hằng ngày. III. Cử hành khi nào? 1. Mùa Phụng vụ: Ngay từ thời Cựu ước, dân Chúa đã có những ngày lễ cố định hằng năm để tưởng nhớ và tạ ơn Chúa vì những kÿ công Ngài thực hiện; đồng thời giáo huấn các thế hệ sau. Hội Thánh hôm nay cũng cử hành phụng vụ vào những ngày cố định để tôn vinh mầu nhiệm Chúa Kitô, nhờ đó "Hội Thánh rộng mở cho các tín hữu sản nghiệp nhân đức và công nghiệp của Chúa, khiến cho những mầu nhiệm này có thể nói là hiện diện qua mọi thời đại, ngõ hầu các tín hữu tiếp xúc với mầu nhiệm đó sẽ được đầy tràn Ơn Cứu Chuộc" (PV 102). 2. Chúa Nhật: Chúa Nhật là ngày của Chúa, ngày Hội Thánh cử hành mầu nhiệm Chúa Kitô phục sinh. Vì Chúa Nhật có tầm quan trọng đặc biệt nên "phải được đề cao và in sâu vào lòng đạo đức của các tín hữu để ngày ấy trở thành ngày vui mừng và ngày nghỉ việc" (PV 106). Tâm điểm của Chúa Nhật là Thánh lễ "Trong ngày đó, các tín hữu phải họp nhau lại để nghe Lời Chúa và tham dự Lễ Tạ Ơn, để kính nhớ cuộc Thương Khó, sự Sống lại và vinh quang của Đức Giêsu; đồng thời cảm tạ Thiên Chúa vì Ngài đã dùng sự phục sinh của Đức Giêsu Kitô từ trong cõi chết, mà tái sinh họ trong niềm hy vọng sống động" (PV 106). 3. Năm Phụng vụ: Lễ Phục Sinh là cao điểm của năm Phụng Vụ, trong đó Hội Thánh cử hành hết sức trọng thể mầu nhiệm Chúa Kitô Phục Sinh, cùng với cuộc thương khó hồng phúc của Ngài. Ngoài ra, Hội Thánh còn "trình bày trọn mầu nhiệm Chúa Kitô qua chu kÿ một năm, từ Nhập thể, Giáng Sinh đến Thăng Thiên, Hiện xuống, cùng với sự mong đợi niềm hy vọng hồng phúc và ngày Chúa lại đến" (PV 102). Như vậy, mỗi năm Phụng vụ, theo thứ tự, người tín hữu sẽ đi qua các Mùa: Mùa Vọng Mùa Giáng Sinh Mùa Chay Mùa Phục Sinh Mùa Thường Niên. Ngoài ra, trong Năm Phụng vụ, Hội Thánh còn "tôn vinh Đức Maria vinh hiển - Mẹ Thiên Chúa, Đấng đã nối kết với công trình cứu chuộc của Con Người bằng mối dây bất khả phân ly". Đồng thời Hội Thánh cũng kính nhớ các Thánh Tử Đạo và các Thánh khác; qua đó, Hội Thánh công bố mầu nhiệm phục sinh nơi các ngài và trình bày cho các tín hữu những gương mẫu tuyệt vời, lôi kéo họ đến với Chúa Cha qua Chúa Kitô (PV 103-104). 4. Phụng vụ các giờ kinh: Kinh Nhật tụng là tiếng nói của Hội Thánh, nghĩa là của toàn thể Nhiệm thể công cộng ngợi khen Thiên Chúa và cầu bầu cho phần rỗi của cả thế giới (PV 83-99). Đồng thời Kinh Nhật tụng còn nhằm mục đích thánh hiến trọn ngày đêm bằng lời ngợi khen Thiên Chúa (PV 84), và là nguồn đạo đức, của ăn cho kinh nguyện riêng tư. Vì thế, Kinh Nhật tụng chiếm vị trí quan trọng trong sinh hoạt phụng vụ của Hội Thánh. Để việc cử hành phụng vụ các giờ kinh mang lại kết quả phong phú, không những người đọc cần hòa hợp tâm trí với lời mình đọc, mà còn phải trau dồi kiến thức về phụng vụ và Kinh Thánh, nhất là về các Thánh Vịnh (PV 90). IV. Cử hành ở đâu? "Việc thờ phượng Thiên Chúa trong tinh thần và chân lý" (Ga,4,24) không bắt buộc phải gắn bó với nơi chốn cố định nào. Vì chính Thân Mình Chúa Kitô Phục Sinh là đền thờ thiêng liêng, tuôn chảy dòng nước ban sự sống, nên khi các tín hữu tụ họp lại, liên kết với Chúa Kitô nhờ Chúa Thánh Thần, họ trở thành đền thờ sống động của Thiên Chúa (x. 2Cr. 6,16). Tuy nhiên, khi hoàn cảnh cho phép, người tín hữu xây dựng các nhà thờ làm nơi thờ phượng. Nhà thờ là Nhà Cầu Nguyện, là nơi ở của Chúa, cụ thể hóa hình ảnh của Hội Thánh đang hiện diện nơi đó, và chính nơi đó Chúa Kitô hiện diện và hành động để cứu độ con người. Cuối cùng, nhà thờ mang ý nghĩa cánh chung. Nhà thờ là biểu trưng cho nhà Cha trên trời mà chúng ta đang đi tới. Bước qua ngưỡng cửa để vào bên trong, nhà thờ là biểu tượng cho việc đi từ thế giới tội lỗi mà vào đời sống mới. Vì thế, nhà thờ là nhà của mọi con cái Thiên Chúa, luôn luôn rộng mở và chào đón mọi người. V. Sống tâm tình phụng vụ. "Các hoạt động phụng vụ không phải là hoạt động riêng tư, nhưng là cử hành của Hội Thánh... phải quí chuộng việc cử hành cộng đồng hơn là cử hành đơn độc và có vẻ riêng tư" (PV 26,27) Như thế mỗi khi cử hành phụng vụ, cụ thể nhất là phụng vụ Thánh Lễ, chúng ta cần tham dự thật tích cực, bằng lời kinh, tiếng hát, những câu tung hô và cả những cử chỉ bên ngoài; để diễn tả ý nghĩa cộng đoàn của cử hành phụng vụ. Thiên Chúa vẫn đến với ta qua những dấu chỉ. Hầu hết các gia đình công giáo đều trưng bày ảnh tượng Thánh trong nhà, để nhắc nhở mọi người về sự hiện diện của Chúa. Hơn thế nữa, nếu chúng ta nhậy bén, có thể nhận ra Chúa đang hiện diện qua nhiều dấu chỉ khác của đời thường: từ phong cảnh thiên nhiên đến nụ cười của trẻ thơ, nỗi đau của người nghèo... Tất cả đều có thể nhắc nhở ta về sự hiện diện đầy yêu thương của Chúa. Bài 29 BÍ TÍCH THÁNH TẨY (x. SGLC từ 1213 đến 1284) "Thật, tôi bảo thật ông: không có ai có thể vào nước Thiên Chúa, nếu không sinh ra bởi Nước và Thần Khí. Cái gì bởi xác thịt mà sinh ra, thì là xác thịt; còn cái gì bởi Thần Khí mà sinh ra, thì là Thần Khí. Ông đừng ngạc nhiên vì tôi đã nói: Các ông cần được sinh ra bởi ơn trên. Gió muốn thổi đâu thì thổi; ông nghe tiếng gió, nhưng không biết nó từ đâu đến và thổi đi đâu. Ai bởi Thần khí mà sinh ra thì cũng vậy" (Ga 3, 15-16) "Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo. Ai tin và chịu Phép Rửa, sẽ được cứu độ; còn ai không tin thì sẽ bị kết án" (Mc 15, 15-16). Bí tích Thánh Tẩy là bước đầu tiên trong hành trình gia nhập Kitô giáo. Đời sống Kitô hữu chỉ thực sự bắt đầu với Thánh Tẩy. Bởi vì Bí tích Thánh tẩy là nền tảng của toàn bộ đời sống Kitô giáo, là cửa ngõ dẫn vào đời sống thần linh, và các Bí tích khác. I. Ý nghĩa của Bí Tích Thánh Tẩy. Tên gọi "Thánh Tẩy" bắt nguồn từ nghi thức chính yếu của việc cử hành Bí tích này: người dự tòng được "dìm xuống nước", "ngụp lặn trong nước hay được đổ nước trên đầu, nói lên ý nghĩa được mai táng với Đức Giêsu trong cái chết, để được sống lại với Người, trở thành "thọ tạo mới" (2Cr 5,17; G1 6,5). Đây cũng là "Phép Rửa ban ơn Thánh Thần, để chúng ta được tái sinh và đổi mới" (Tt 3,5). Nhờ "sinh ra bởi nước và Thần Khí", người được rửa tội nhận được "Ngôi Lời là ánh sáng thật, ánh sáng đến thế gian và chiếu soi mọi người (Ga 1,9), họ trở thành "con cái ánh sáng (1Tx 5,5) và là ánh sáng" (Ep 5,8). II. Bí tích Thánh tẩy trong công cuộc cứu rỗi. Trong Phụng vụ Đêm Vọng Phục Sinh, khi thánh hóa nước rửa tội, Hội Thánh nhắc lại những biến cố lớn trong lịch sử cứu độ, báo trước Bí tích Thánh tẩy. Ngay từ buổi đầu sáng thế, Thần Khí Thiên Chúa bay lượn trên nước, để ban cho nước có khả năng phát sinh sự sống (x. St 1,1-2). Nước đại hồng thủy vừa hủy diệt tội lỗi, vừa cứu thoát gia đình ông Nôê. Hội Thánh thấy con tàu Nôê báo trước ơn cứu độ nhờ Bí tích Thánh tẩy. Nước Biển Đỏ đã giết chết dân tội lỗi, và giải thoát dân Thiên Chúa (x. Xh 14, 1-31). "Chúa đã giải thoát con cháu Abraham khỏi vòng nô lệ, mà dẫn qua Biển Đỏ ráo chân, để họ tượng trưng cho một dân tộc mới, là những người được Thánh tẩy sau này" (Vọng Phục Sinh, làm phép Nước Rửa Tội). Nước tượng trưng cho sự sống, nhưng nước cũng tượng trưng cho sự chết. Bởi vậy, nước Thánh Tẩy có thể tượng trưng cho Mầu Nhiệm Vượt Qua: được rửa tội là cùng chết với Đức Kitô, và cùng sống lại với Người (x. Rm 6, 3-11). Đức Giêsu đã đến để thực hiện và hoàn tất những hình ảnh về Bí tích Thánh Tẩy được loan báo trong Cựu Ước. Người đã tự nguyện hạ mình để cho ông Gioan làm phép rửa tại sông Giođan, hầu báo trước Bí tích Thánh Tẩy mà Người sẽ thiết lập trong mầu nhiệm Phục Sinh. Máu và Nước từ cạnh sườn Chúa chịu đóng đinh trên thập giá (x.Ga 19,3-4) ám chỉ Bí tích Thánh Tẩy và Bí tích Thánh Thể. Và từ giây phút ấy, chúng ta có thể được "sinh ra bởi nước và Thần Khí" để "có thể được vào Nước Thiên Chúa" (Ga 3,5. Ngay từ Lễ Ngũ Tuần, Hội Thánh đã cử hành Bí tích Thánh Tẩy (x. Cv 2,38), sau đó các tông đồ và những cộng tác viên đã ban phép Thánh tẩy cho tất cả những ai kính Đức Giêsu: người Do Thái cũng như người ngoại giáo (x. Cv 2,41; 8, 12-13; 10, 48; 16, 15). III. Sự cần thiết của Bí tích Thánh tẩy. Chính Đức Giêsu khẳng định Bí tích Thánh tẩy là cần thiết để được cứu độ (x. Ga 3,5), và Hội Thánh cũng quả quyết theo Chúa mình, vì Hội Thánh không có phương thế nào khác ngoài Bí tích Thánh tẩy, bảo đảm cho con người được hưởng hạnh phúc đời đời. Vì thế, Thánh tẩy được coi là Bí tích quan trọng nhất, và cần thiết nhất, mặc dù không cao trọng bằng bằng Bí tích Thánh Thể. Cha mẹ Kitô giáo phải lo cho con cái sinh ra được rửa tội trong vòng một tháng. Thừa tác viên thông thường của Bí tích Thánh Tẩy là Giám mục, Linh mục và Phó tế. Trong trường hợp khẩn thiết, thì bất cứ ai (kể cả người ngoại) cũng có thể rửa tội, miễn là có ý muốn làm điều Hội Thánh làm khi rửa tội, và sử dụng công thức rửa tội nhân danh Chúa Ba Ngôi. Tuy nhiên không chỉ có Thánh Tẩy bằng nước mới đưa đến ơn cứu độ: đây là đường lối chính thức và thông thường. "Thiên Chúa đã liên kết ơn cứu độ với Bí tích Thánh Tẩy, nhưng chính Người không bị các bí tích ràng buộc". Thiên Chúa muốn cứu độ mọi người (x. 1Tm 2,4) nên ai sống theo lương tâm và thi hành ý muốn Thiên Chúa, cũng có thể được cứu độ (x. GH 16). "Vì Chúa Kitô đã chết cho tất cả, và vì mọi người chỉ có một ơn gọi cuối cùng là kết hợp với Thiên Chúa, nên ta phải tin chắc rằng Chúa Thánh Thần ban cho mọi người khả năng tham dự vào mầu nhiệm Phục Sinh, cách nào đó, chỉ có Chúa biết thôi" (MV 22). Những người chịu chết vì đức tin mà chưa được rửa tội, thì được coi như Thánh Tẩy bằng máu (thí dụ các Thánh Anh Hài). Những người ước muốn được Thánh tẩy, dù chưa theo đạo hay đang thời kỳ dự tòng, mà chết trước khi được toại nguyện, được kể vào trường hợp Thánh tẩy bằng ước muốn. Riêng các trẻ em chết mà chưa được rửa tội, Hội Thánh tin tưởng phó thác các em cho lòng thương xót của Thiên Chúa, và hy vọng có một con đường cứu độ dành cho các em (x. Nghi thức an táng trẻ nhỏ). IV. Ân sủng của Bí tích Thánh tẩy. Người Kitô hữu đã chịu Thánh tẩy là người đã chết cho tội lỗi để sống cho Thiên Chúa (x. Rm 6,11), do vậy hai hiệu quả chính của Bí tích Thanh tẩy là rửa sạch tội lỗi và sinh lại trong Chúa Thánh Thần (x. Cv 2,38; Ga 3,5). Được tha thứ tội lỗi: Mọi tội lỗi đều được tha: tội nguyên tổ, mọi tội riêng cũng như mọi hình phạt do tội. Tuy nhiên, vẫn còn đau khổ, bệnh tật, yếu đuối và sự hướng chiều về tội lỗi. vì thế, cuộc sống Kitô hữu là cuộc chiến đấu cam go và liên tục, chống lại tội lỗi và các khuynh hướng xấu. Trở nên thụ tạo mới: (x. 2Cr 5,7) Bí tích Thánh tẩy làm cho một người thành một con người mới, thành nghĩa tử của Chúa Cha (x. G1 4,5-7) "được thông phần bản tính Thiên Chúa" 2Pr 1,4), thành chi thể của Chúa Kitô (x. 1Cr 6,19; 12,27), thành đền thờ Chúa Thánh Thần (x 1Cr 6,19). Thiên Chúa Ba Ngôi ban cho người được rửa tội ơn thánh hóa và ơn công chính hóa, cùng với ba nhân đức Tin, Cậy, Mến, các hồng ân Chúa Thánh Thần, và các nhân đức khác. Tất cả đời sống siêu nhiên của người Kitô hữu đều bắt nguồn từ Bí tích Thánh tẩy. Tháp nhập vào Hội Thánh là thân thể Chúa Kitô: Bí tích Thánh tẩy làm cho chúng ta thành chi thể trong thân thể Chúa Kitô, là Hội Thánh (x. 1Cr 12,13) "thành những viên đá sống động... để xây nên đền thờ của Thánh Thần, xây dựng hàng tư tế Thánh" (x 1pr 2,5). Họ tham dự vào chức tư tế, ngôn sứ và vương đế của Chúa Kitô. Trở thành phần tử của Hội Thánh, người Kitô hữu liên kết chặt chẽ với Chúa Kitô và với anh em. Họ được quyền lãnh nhận các Bí tích sự sống, được nuôi dưỡng bằng Lời Chúa và được Hội Thánh trợ giúp thiêng liêng. Đồng thời họ có bổn phận xây dựng Hội Thánh bằng tình hiệp thông và phục vụ nhau, vâng lời các vị lãnh đạo, tuyên xưng đức tin trước mặt mọi người, tham dự vào hoạt động tông đồ và truyền giáo của dân Thiên Chúa (x. GH 17; TG 7,23). Cũng phải nói thêm là: Bí tích Thánh tẩy không chỉ là mối giây hiệp nhất giữa những người Công giáo, mà còn giữa tất cả các Kitô hữu, những anh em Chính Thống, Tin Lành và Anh giáo, đã được rửa tội đúng phép, nhưng chưa hoàn toàn hiệp thông với Hội Thánh Công giáo. Dấu ấn thiêng liêng không thể tẩy xóa: Được trở nên "đồng hình đồng dạng" với Chúa Kitô (x Rm 8,29) nhờ Thánh Tẩy, người Kitô hữu được ghi một dấu ấn thiêng liêng không thể tẩy xóa. Vì thế, mỗi người chỉ nhận Bí tích Thánh tẩy một lần mà thôi. Dấu ấn này xác nhận người Kitô hữu thuộc về Chúa Kitô, hiến thánh họ để thi hành chức tư tế cộng đồng bằng việc tham dự vào việc phụng vụ của Hội Thánh, bằng đời sống thánh thiện và chứng nhân. Người Kitô hữu phải gìn giữ dấu ấn này cho đến cùng, nghĩa là trung thành với những đòi hỏi của Bí tích Thánh Tẩy, để được hưởng sự sống và vinh quang Thiên Chúa. V. Cử hành Bí tích Thánh tẩy. Ý nghĩa và ân sủng của Bí tích Thánh tẩy được trình bày rõ ràng trong các nghi thức cử hành. Qua các cử chỉ và lời nói, chúng ta hiểu được sự phong phú mà Bí tích biểu thị và thực hiện nơi người tân tòng. Dấu Thánh giá được ghi trên trán người dự tòng, cho thấy họ thuộc về Chúa Kitô, Đấng cứu chuộc nhân loại nhờ Thánh Giá. Việc công bố Lời Chúa soi sáng Người dự tòng và cộng đoàn, đồng thời gợi lên lời đáp trả của đức tin. Lời nguyện trừ tà được vị chủ sự đọc cùng với việc xức dầu dự tòng giải thoát họ khỏi tội lỗi và khỏi ma quỉ, rồi họ công khai từ bỏ Xatan. Nước rửa tội được thánh hiến nhờ quyền năng Thánh Thần, để người dự tòng được "sinh ra bởi nước và Thần Khí" (Ga 3,5). Nghi thức chính yếu là đổ nước ba lần trên đầu người dự tòng (hoặc dìm xuống ba lần) nói lên và thực hiện việc chết đối với tội lỗi, và bước vào đời sống của Thiên Chúa Ba Ngôi. Việc xức dầu Thánh làm cho người tân tòng trở nên Kitô hữu, nghĩa là "được xức dầu" bằng Chúa Thánh Thần, để tham dự vào chức tư tế, ngôn sứ và vương đế của Chúa Kitô. Áo trắng trao cho người tân tòng, tượng trưng "mặc lấy Chúa Kitô" (G1 3,27). Nến sáng được thắp từ cây nến Phục Sinh, biểu thị Chúa Kitô soi sáng người tân tòng, và nhờ đó trở thành "ánh sáng cho trần gian" (mt 5,14); xP1 2,15). Sau cùng là Kinh Lạy Cha và phép lành trọng thể. VI. Ai có thể nhận lãnh Bí tích Thánh tẩy? Tất cả những người chưa được rửa tội đều có thể nhận lãnh Bí tích Thánh Tẩy. Bí tích Thánh Tẩy trong Hội Thánh Công giáo thường được ban cho người lớn cũng như trẻ em. Rửa tội cho người lớn: Ngay từ thời các tông đồ, người lớn nhập đạo phải trải qua thời kỳ dự tòng gồm nhiều giai đoạn. Công đồng Vatican II đã tái lập thời kỳ dự tòng dành cho người lớn (x. Nghi thức gia nhập Kitô giáo dành cho người lớn - 1972). Thời kỳ dự tòng hoặc thời gian huấn luyện gồm việc dạy giáo lý kèm theo những nghi thức phụng vụ, có mục đích giúp đương sự đáp lại lời mời cứu độ của Thiên Chúa, và hiệp thông với cộng đoàn Hội Thánh, hoán cải và tiến đến một đức tin trưởng thành, để sẵn sàng nhận lãnh ba Bí Tích nhập đạo. "Đây chính là thời gian huấn luyện đời sống Kitô giáo đầy đủ... để nhờ đó, môn đệ liên kết với Chúa Kitô là Thầy mình. Các người dự tòng được khai tâm về mầu nhiệm cứu rỗi, tập sống theo Phúc Âm, và qua các nghi lễ được cử hành theo từng giai đoạn, họ được đưa vào đời sống đức tin phụng vụ và bác ái của dân Chúa" (x. PV 64-65). Rửa tội cho trẻ em: Có nhiều người đề nghị hoãn việc rửa tội cho trẻ sơ sinh tới khi chúng biết lựa chọn và ý thức được điều cam kết. Truyền thống rửa tội cho trẻ em được Hội Thánh xác nhận là bắt đầu từ thế kỷ thứ hai. Nhưng rất có thể ngay từ đầu, các Tông đồ cũng đã rửa tội cho trẻ em, khi có những gia đình mà "cả nhà" đều chịu phép rửa (x. Cv 16, 15 .. 33; 18,8; 1Cr 1,16). Cả người lớn lẫn trẻ em đều cần được tẩy xóa tội lỗi, và sinh ra trong đời sống mới, nhờ Bí tích Thánh tẩy. Thiên Chúa ban ơn cứu độ hoàn toàn nhưng không cho con người, cho nên nếu không cho trẻ em lãnh nhận Bí Tích Thánh tẩy để trở nên con cái Thiên Chúa là một thiệt thòi rất lớn. Do đó, Hội Thánh và cha mẹ phải lo cho các em được rửa tội càng sớm càng tốt sau khi sinh (x. G1 8,67). VII. Đức tin và Bí tích Thánh tẩy. Cũng như mọi Bí tích, Bí tích Thánh tẩy là Bí tích Đức tin. Bí tích Thánh Tẩy không những đòi hỏi phải có đức tin để lãnh nhận, mà còn thông ban đức tin. Hội Thánh ban Thánh tẩy cho trẻ nhỏ dựa trên đức tin của cộng đoàn, nhất là của cha mẹ và người đỡ đầu. Dù là của người lớn hay của trẻ nhỏ, đức tin của mỗi người tín hữu đều khơi nguồn và gắn liền với đức tin của Hội Thánh. Đức tin của những người đã được rửa tội chỉ mới là mầm mống và khởi đầu, cần được lớn lên tới mức trưởng thành. Cha mẹ và người đỡ đầu được Hội Thánh trao cho trách nhiệm giúp đỡ những người đã được rửa tội (người lớn cũng như trẻ nhỏ) để ân sủng của Bí tích Thánh Tẩy được phát triển. Họ phải dùng lời nói cũng như gương sáng của một đời sống đạo tốt lành, để giúp đỡ con cái hay con đỡ đầu. Hơn nữa, họ còn phải lo cho con cái hay con đỡ đầu được theo học giáo lý thích hợp với hoàn cảnh và tuổi tác. Toàn thể cộng đoàn Hội Thánh cũng có phần trách nhiệm trong việc giữ gìn và phát triển ơn Thánh tẩy. Vì thế, hằng năm trong Đêm Vọng Phục Sinh, Hội Thánh cho các tín hữu nhắc lại lời hứa rửa tội. VIII. Sống Bí tích Thánh tẩy. Người Kitô hữu chỉ lãnh nhận Thánh tẩy một lần trong đời, nhưng họ phải cố gắng sống ơn Thánh tẩy suốt cuộc đời. Sống ơn Thánh tẩy là nên Thánh. Công Đồng Vatican II đã kêu gọi mọi tín hữu nên Thánh như sau: "Được Thiên Chúa kêu gọi, và được công chính hóa trong Đức Giêsu.... các môn đệ Chúa Kitô, nhờ lãnh nhận Bí tích Thánh tẩy, bí tích Đức Tin, đã thực sự trở nên con cái Thiên Chúa, và được thông phần vào bản tính Người. Và do đó, thực sự đã trở nên Thánh. Cho nên với ơn Chúa, họ phải luôn gìn giữ và hoàn thành trong đời sống sự thánh thiện mà họ đã lãnh nhận. Họ được thánh Tông đồ khuyên: Sống xứng đáng là các Thánh (Ep. 5,3). "Là những người được Thiên Chúa tuyển lựa, hiến thánh và yêu thương. Vì thế, anh em hãy có lòng thương cảm, nhân hậu, khiêm nhu, hiền hòa và nhẫn nại" (C1 3,12). Và dùng hoa trái của Thánh Thần để thánh hóa mình (x. G1 5,22; Rm 6,22). "Nhưng vì chúng ta ai cũng có nhiều lỗi lầm (x. Gc 3,2) nên chúng ta luôn cần đến lòng nhân từ của Thiên Chúa, và hằng ngày phải cầu nguyện "xin tha nợ chúng con" (Mt 6,12). Để đạt tới sự trọn lành đó, tín hữu phải sử dụng những sức lực mà Chúa Kitô đã ban, nhiều ít tùy ý Người, để nên giống Người khi theo vết chân Người, và khi thực hành thánh ý Chúa Cha trong tất cả mọi sự, họ sẽ hết lòng tìm vinh danh Chúa và phục vụ tha nhân. (GH 40). Bài 30 BÍ TÍCH THÊM SỨC (x. SGLC từ 1285 đến 1321) "Nhờ ơn Bí tích Thêm sức, tín hữu gắn bó với Hội Thánh cách hoàn hảo hơn, và được dư đầy sức mạnh đặc biệt của Chúa Thánh Thần, do đó họ càng có bổn phận khẩn thiết hơn phải loan truyền và bảo vệ đức tin bằng lời nói và việc làm, như những chứng nhân đích thực của Chúa Kitô". (GH 11). Cũng như sự sống tự nhiên của thân xác, sự sống thần linh của người Kitô hữu do phép Thánh tẩy, cần lớn lên và đạt tới mức trưởng thành (x. Ep 4,13; C1 1,28). Bí tích Thêm sức được coi là Bí tích trưởng thành của đời sống Kitô hữu. Bí tích Thêm Sức củng cố và hoàn tất những hiệu quả của Bí tích Thánh tẩy. Cả hai Bí tích này biệt lập với nhau, nhưng bổ túc cho nhau và cùng với Bí tích Thánh Thể, làm nên bộ ba, hoàn thành hành trình gia nhập Kitô giáo. I. Nguồn gốc Bí tích Thêm Sức. Được thụ thai bởi Chúa Thánh Thần trong lòng Trinh Nữ Maria, và được Chúa Thánh Thần ngự xuống khi chịu phép rửa tại sông Giođan, lúc khai mạc cuộc đời hoạt động công khai, Đức Giêsu luôn hiệp thông trọn vẹn với Chúa Thánh Thần nơi bản thân, cũng như khi thi hành sứ mạng Chúa Cha trao phó. Điều này chứng tỏ Đức Giêsu chính là Đấng Thiên Chúa sai đến, Đấng Mêsia (x. Mt 3,13-17); Ga 1,33-34). Nhưng Đức Giêsu không lãnh nhận tràn đầy Chúa Thánh Thần cho riêng mình, mà còn cho tất cả những ai tin vào Người: đó là dân của Đấng Mêsia (x. Ed 36, 25-27; Ge 3, 1-2). Vì thế, Chúa Phục Sinh đã thông ban Thánh Thần cho các Tông Đồ vào buổi sáng ngày thứ nhất trong tuần, và tràn đổ ơn Thánh Thần cách đặc biệt vào ngày lễ Ngũ Tuần như Người đã hứa (x. Cv 2,1-4). Sau đó, để thi hành ý muốn của Chúa Kitô, các Tông đồ đã đặt tay trên những người mới theo đạo, để ban Chúa Thánh Thần, nhằm hoàn tất ơn Thánh Tẩy (x. Cv 8, 15-17; 19, 5-6). Việc đặt tay ban Thánh Thần của các Tông Đồ, được coi là nguồn gốc Bí tích Thêm Sức trong Hội Thánh. Sau đó, một thời gian việc xức dầu thánh được thêm vào cùng với việc đặt tay. Cả hai nghi thức này làm nên thành phần chủ yếu của Bí Tích Thêm Sức. II. Nghi thức và thừa tác viên của Bí tích Thêm Sức. Nghi thức Bí Tích Thêm Sức chính yếu ở việc xức Dầu Thánh trên trán người đã chịu Thánh Tẩy, và việc đặt tay cùng với lời đọc: "Hãy lãnh nhận ấn tín ơn Chúa Thánh Thần". Việc xức dầu nói lên ý nghĩa của tên gọi Kitô hữu (Người được xức dầu) bắt nguồn từ Chúa Kitô, "Đấng được xức dầu", vì "Thiên Chúa đã dùng Thánh Thần và quyền năng mà xức dầu tấn phong Người" (Cv 10,38). Từ thời xa xưa, việc xức dầu mang nhiều tính biểu tượng. Dầu có sức thanh tẩy, chữa lành và tăng thêm sức mạnh. Trong Cựu ước, các vua và các tư tế đều được xức dầu tấn phong. Chúa Kitô là "Đấng Thiên Chúa Cha đã ghi dấu xác nhận" (Ga 6,27), nên người Kitô hữu cũng được ghi dấu ấn của Chúa Thánh Thần, nhờ việc xức dầu, để xác nhận người đó hoàn toàn thuộc về Chúa Kitô, và sống cho Người, đồng thời được Thiên Chúa bảo đảm trong cơn thử thách của ngày tận thế. Dấu ấn này thiêng liêng và không thể tẩy xóa, nên người Kitô hữu chỉ lãnh nhận Bí tích Thêm Sức một lần trong đời mà thôi. Trước nghi thức chủ yếu của Bí tích Thêm Sức, Đức Giám mục giơ hai tay trên những người lãnh nhận bí tích này. Cử chỉ này là dấu hiệu ban Chúa Thánh Thần, có nguồn gốc từ thời các Tông đồ. Kết thúc nghi thức Bí tích Thêm Sức là cái hôn bình an (ở Việt Nam, thường là cái vả nhẹ lên má), nói lên và bày tỏ mối hiệp thông với Đức Giám mục, và với tất cả mọi tín hữu. Thừa tác viên chính thức và thông thường của Bí tích Thêm Sức là các Đức Giám mục, và khi có lý do chính đáng, các giám mục có thể ủy quyền cho các Linh mục. Khi một linh mục rửa tội cho người lớn, thì cũng chính linh mục đó có quyền ban Phép Thêm Sức trong cùng một lần cử hành duy nhất. Nếu một Kitô hữu có nguy cơ tử vong, thì bất cứ linh mục nào cũng phải ban phép Thêm Sức cho người đó. III. Hiệu quả Bí tích Thêm Sức. Bất cứ Bí tích nào cũng ban ơn Chúa Thánh Thần, nhưng trong Bí tích Thêm Sức, Chúa Thánh Thần xuống tràn đầy trên các người lãnh nhận, cũng như xưa đã xuống trên các Tông đồ ngày lễ Ngũ Tuần. Như vậy, Bí tích Thêm Sức đào sâu và làm cho lớn lên ân sủng của Bí tích Thánh Tẩy: Ơn làm con cái Thiên Chúa nhờ Thánh tẩy, được sâu xa và bảo đảm hơn, Kết hợp mật thiết hơn với Chúa Kitô, Làm tăng thêm những ân huệ của Chúa Thánh Thần, Gắn bó với Hội Thánh cách hoàn hảo hơn, Và làm thành chứng nhân của Chúa Kitô, để bảo vệ và ban truyền đức tin bằng lời nói và việc làm, để can đảm tuyên xưng Chúa Kitô trong mọi hoàn cảnh. IV. Điều kiện lãnh nhận Bí tích Thêm Sức. Tất cả những người đã chịu Thánh Tẩy đều có thể và phải lãnh nhận Bí tích Thêm Sức, để việc gia nhập Kitô giáo được hoàn tất. Tuy nhiên, để lãnh nhận Bí Tích Thêm Sức cách hiệu quả, cần có những điều kiện sau đây: Người lãnh nhận đã đến tuổi khôn, tức là tuổi biết phân biệt lành dữ. Bí tích Thêm Sức được gọi là "Bí tích trưởng thành Kitô giáo". Nhưng cũng nên lưu ý rằng: trưởng thành siêu nhiên là do ơn Chúa, không nhất thiết lệ thuộc vào sự trưởng thành tự nhiên của tuổi tác. Phải học giáo lý một thời gian để chuẩn bị lãnh Thêm sức. Giáo lý Thêm Sức nhằm dẫn đưa người Kitô hữu kết hợp với Chúa Kitô thân mật hơn, yêu mến và sẵn sàng với tiếng gọi của Chúa Thánh Thần, ý thức và sống mầu nhiệm hiệp thông với Hội Thánh toàn cầu, và cụ thể là với cộng đoàn giáo xứ. Phải ở tình trạng ân sủng, không vướng mắc tội nặng. Tốt hơn là nên đi xưng tội, và tha thiết cầu nguyện, để có thể lãnh nhận ân sủng Chúa Thánh Thần cách thích hợp. Ngoài ra, cần chọn một người làm cha hay mẹ đỡ đầu, để nâng đỡ đời sống đức tin. Nên giữ lại cha hoặc mẹ đỡ đầu khi chịu Thánh Tẩy, để nêu rõ tính thống nhất của hai bí tích này. V. Bổn phận của những người đã lãnh bí tích thêm sức. Nhờ Bí tích Thêm Sức, người Kitô hữu được tăng cường sức mạnh để bảo vệ và mở rộng đức tin của mình. Việc đọc và suy gẫm Lời Chúa thường xuyên, không những nuôi dưỡng mà còn phát triển đức tin nơi người Kitô hữu. Trung thành và thường xuyên đến với cộng đoàn Hội Thánh trong các cử hành Phụng vụ (x. Dt 10,25), nhất là cộng đoàn Thánh Lễ ngày Chúa Nhật, đó là cách liên kết với Hội Thánh có hiệu quả, để duy trì và phát triển đức tin. Tham gia các hội đoàn, hoặc lãnh nhận một công việc phục vụ trong giáo xứ (như dạy giáo lý), sẽ giúp người Kitô hữu thi hành bổn phận Thêm Sức. Ngoài ra, người đã lãnh Thêm Sức cũng có bổn phận làm tông đồ, nghĩa là làm cho người khác nhận biết, yêu mến và phục vụ Chúa Kitô, đối với những người cùng đức tin, cũng như với những người chưa tin. "Chúng ta hãy để ý đến nhau, làm sao cho người này thúc đẩy người kia sống yêu thương và làm những việc tốt" (Dt 10,24). "Người giáo dân có rất nhiều cơ hội làm việc tông đồ: rao giảng Phúc Âm và thánh hóa. Chính chứng tá của đời sống Kitô, và những việc lành được làm với tinh thần siêu nhiên, có sức lôi kéo người ta đến đức tin, và đến với Thiên Chúa, vì Chúa phán: "Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời" (Mt 5,16). Tuy nhiên, việc tông đồ này không chỉ tại ở việc làm chứng bằng đời sống. Người tông đồ đích thực còn tìm dịp loan truyền Chúa Kitô bằng lời nói hoặc cho người chưa tin, để đưa họ đến đức tin, hoặc cho tín hữu để giáo huấn họ, củng cố và thúc đẩy họ sống sốt sắng hơn, vì "tình yêu Chúa Kitô thôi thúc chúng ta" (2Cr 5,14) (TĐ 6).   Bài 31 BÍ TÍCH THÁNH THỂ (x. SGLC từ 1322 đến 1344) "Trong bữa tiệc sau hết, đêm bị nộp, Đấng Cứu chuộc chúng ta đã thiết lập Hy tế Tạ ơn bằng Mình Máu Người, để nối dài Hy tế Khổ giá qua các thời đại, cho tới khi Người lại đến, và để trao cho Hội Thánh, hiền thê yêu quí của Người, việc tưởng niệm sự chết và sống lại của Người: đó là Bí tích Tình Yêu, dấu chỉ hiệp nhất, mối dây bác ái. Bữa tiệc Vượt Qua trong đó Chúa Kitô được tiếp nhận như lương thực, tâm hồn được tràn đầy ân sủng, và ta có đảm bảo được vinh quang tương lai" (PV 47). I. Bí tích Thánh Thể: nguồn suối và chóp đỉnh đời sống Hội thánh. Ngày Chúa Nhật người ta thấy Kitô hữu tấp nập tới nhà thờ dự lễ. Đó là một sinh hoạt nổi bật và thường xuyên trong đời sống Kitô hữu. Vì dự lễ là cử hành Bí tích Thánh Thể, cử hành chính Mầu nhiệm Vượt Qua của Chúa Kitô, tâm điểm của kế hoạch cứu độ. Thực vậy, "các bí tích khác cũng như tác vụ trong Hội Thánh, và các nhiệm vụ tông đồ, đều liên kết và qui hướng về Bí tích Thánh Thể; vì Bí tích ấy chứa đựng toàn kho tàng thiêng liêng của Hội Thánh, là chính Chúa Kitô, Mầu nhiệm Vượt Qua của chúng ta. Người là Bánh Hằng Sống ban sự sống cho nhân loại" (LM 5). Bí tích Thánh Thể còn là chóp đỉnh toàn thể việc Phúc Âm hóa (x. LM 5). Phúc Âm hóa là sứ mệnh của Hội Thánh, Hội Thánh phải loan báo và xây dựng Nước Thiên Chúa, nghĩa là loan báo và xây dựng sự hiệp thông giữa Thiên Chúa với con người và vũ trụ vạn vật. Thế mà Bí tích Thánh Thể vừa là dấu chỉ hiệp thông, vừa thực hiện sự hiệp thông với Thiên Chúa, và sự hiệp nhất trong Dân Thiên Chúa, nhờ đó mà Hội Thánh thực sự là Hội Thánh. Bí tích Thánh Thể vừa là tuyệt đỉnh của hành động Thiên Chúa thánh hóa thế giới trong Chúa Kitô, vừa là tuyệt đỉnh của việc tôn thờ mà loài người nhờ Chúa Thánh Thần dâng lên Chúa Kitô, và nhờ Chúa Kitô dâng lên Chúa Cha. II. Bí tích Thánh Thể là gì? Bí tích Thánh Thể chứa đựng chính Chúa Kitô, và là chóp đỉnh sứ vụ của Hội Thánh, nên chứa đựng nhiều ý nghĩa sâu sắc và phong phú, không thể hiểu hết được. Hội Thánh dã luôn tuyên xưng: "Đây là mầu nhiệm Đức Tin". Tuy nhiên ta có thể hiểu được một số khía cạnh chính của Bí tích, nhờ các tên quen dùng để gọi Bí tích ấy, như: Lễ tạ ơn (1Cr 11,24), vì dân Do Thái quen chúc tụng cảm tạ, thường là trong bữa ăn, để ca ngợi những kỳ công Thiên Chúa đã thực hiện, như sáng tạo, cứu độ, thánh hóa. Tiệc của Chúa (1Cr 11,20), vì nhớ đến bữa Tiệc ly Chúa đã dự với các Tông đồ trước khi chịu khổ nạn, và cũng nhắc tới bữa tiệc cưới của Chiên Con trong Nước Trời (Kh 19,9). Lễ Bẻ Bánh (Cv 2,42), vì cử chỉ này Đức Giêsu thường làm khi chúc lành và chia Bánh (Mt 14,19), nhất là trong Bữa Tiệc Ly (Mt 26,26), và khi hiện ra với hai môn đệ đi về Emmau (Lc 24,30). Hội họp Tạ ơn (1Cr 11, 17.33) nói đến việc các tín hữu họp lại thành cộng đoàn, để cử hành Thánh lễ Tạ Ơn. Đó là dấu chỉ hữu hình về Hội Thánh. Cuộc tưởng niệm (1Cr 11,25) để nhắc nhớ cuộc khổ nạn và phục sinh của Chúa Kitô, là Mầu nhiệm Vượt Qua, tâm điểm của lịch sử cứu độ. Hiến tế, Thánh Lễ, Hiến tế Tạ Ơn... Vì Bí tích Thánh thể hiện tại hóa hiến tế độc nhất của Chúa Kitô, để Hội Thánh có thể cùng dâng lên Thiên Chúa (Dt 13,15). Phụng vụ Thánh, Mầu nhiệm Thánh, Mầu Nhiệm Đức tin (SGLC 1330), vì việc cử hành Bí tích Thánh Thể vừa là tâm điểm của toàn thể đời sống Phụng vụ, vừa diễn đạt Phụng vụ một cách cô đọng nhất. Tuy nhiên, Bí tích Thánh Thể vẫn luôn là mầu nhiệm Đức Tin. Hiệp thông, Hiệp lễ (1Cr 10, 16-17) Vì Bí Tích Thánh Thể vừa là dấu chỉ sự hiệp thông, vừa là dụng cụ để hiệp thông con người với Chúa Kitô. Khi rước lễ hay hiệp lễ là ta được thông phần Mình và Máu Chúa, để trở thành một Thân Thể. Ta còn được hiệp thông với Thiên Chúa Ba Ngôi và với mọi người nữa. Lễ Misa (tiếng Latinh là Missa, lấy trong lời chúc kết lễ: Ite Missa est), vì việc cử hành Mầu nhiệm Cứa độ trong Phụng vụ được kết thúc bằng việc sai các tín hữu đi vào cuộc sống thường ngày, để thực thi ý Chúa. Theo Hiến chế về Phụng vụ, Chúa Kitô đã lập Bí tích Thánh Thể để ủy thác cho Hội Thánh: Việc tưởng niệm cái chết và sự sống lại của Người, Bí tích Tình yêu, dấu chỉ hiệp nhất, mối dây bác ái, Bữa tiệc Vượt Qua, trong đó khi rước chúa, tâm hồn được đầy ơn sủng và Đảm bảo cho ta được vinh quang tương lai (PV 47). III. Đức Giêsu lập Bí tích Thánh Thể. Khi nào? Đức Giêsu lập Bí Tích Thánh thể trong Bữa Tiệc sau hết với các Tông đồ, cũng là Tiệc Vượt Qua của người Do Thái, trước khi Người chịu khổ hình (x. Lc 22,14-16). Thế nào? Bài tường thuật của Thánh Phaolô là văn kiện Tân ước tiên khởi cho biết: "Trong đêm bị nộp, Đức Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng tạ ơn, rồi bẻ ra và nói: Anh em cầm lấy mà ăn, đây là Mình Thầy hiến tế vì anh em; anh em hãy làm như Thầy vừa làm để tưởng nhớ đến Thầy. Cũng thế, cuối bữa ăn, Người nâng chén và nói: Đây là chén Máu Thầy, Máu đổ ra để lập Giao Ước mới; mỗi khi uống, anh em hãy làm như Thầy vừa làm, để tưởng nhớ đến Thầy" (1Cr 11, 23-25). IV. Đức Giêsu ban quyền cử hành Bí tích Thánh Thể. Khi lập Bí tích Thánh Thể, Đức Giêsu đã truyền cho các Tông đồ rằng: "Hãy làm như Thầy vừa làm, để tưởng nhớ Thầy". Người không chỉ muốn các Ngài tưởng niệm Người, cũng như công việc Người làm mà thôi, nhưng theo ý nghĩa của Tân Ước, tưởng niệm vừa là nhớ đến, vừa là hiện tại hóa điều mình tưởng niệm. Như thế, Người muốn để hiến tế Người dâng chỉ một lần trên thập giá được hiện tại hóa, và công trình cứu độ được thực hiện (x. GH 3). Nhờ các tông đồ, Người đã làm cho các Giám mục, những vị kế nghiệp các tông đồ, có thể tham dự vào cuộc thánh hiến, và vào sứ mệnh của Người. Các giám mục lại trao nhiệm vụ thừa tác của mình một cách hợp pháp cho các Linh mục. Giám mục và Linh mục trở thành tư tế đích thực của Giao ước mới. (x. GH 28). Đức Giêsu đã ban quyền cử hành Bí Tích Thánh thể cho các tông đồ và các vị kế nghiệp các tông đồ là các Giám Mục. Các giám mục lại trao quyền cho các linh mục qua Bí Tích Truyền Chức. Do đó, chỉ các linh mục được phong chức thành sự mới có thể chủ sự để cử hành Bí tích Thánh Thể, và thánh hiến bánh rượu trở thành Mình Máu Chúa. V. Đức Giêsu ngự trong Bí tích Thánh Thể. Khi nào? Đức Giêsu ngự trong hình bánh hình rượu khi Truyền Phép, và Người ngự ở đó bao lâu hình bánh hình rượu còn. Thế nào? Đức Giêsu Kitô hiện diện bằng nhiều cách: trong Lời Chúa, trong kinh nguyện của Hội Thánh "Khi có hai ba người họp lại nhân danh Thầy" (Mt 18,20), trong người nghèo, bệnh nhân, tù nhân (Mt 25, 31-46), trong các bí tích mà Người thiết lập, trong Thánh lễ và trong bản thân thừa tác viên. Nhưng ở đỉnh cao nhất là Người hiện diện trong hình bánh rượu (PV 7). Cách Người hiện diện như thế chỉ có một không hai. "Bí tích Thánh Thể chứa đựng thực sự Mình và Máu cùng linh hồn và thiên tính của Đức Giêsu Kitô, nghĩa là trọn vẹn Chúa Kitô" (DS 1651). Nhờ Lời Chúa Kitô và tác động Chúa Thánh Thần khi truyền phép, bánh và rượu trở thành Mình và Máu Chúa Kitô, và Chúa Kitô hiện diện trong đó. "Tất cả bản thể bánh được biến đổi thành bản thể Mình Chúa Kitô, và tất cả bản thể rượu thành bản thể Máu của Người; sự biến đổi này được Hội Thánh Công Giáo gọi một cách chính xác là biến bản thể (DS 1642). "Chúa Kitô hiện diện trọn vẹn trong mỗi hình, và trọn vẹn trong mỗi phần nhỏ của hình bánh, hình rượu, đến nỗi có bẻ bánh cũng không chia Chúa Kitô được" (x. DS 1641). VI. Kitô hữu với Bí tích Thánh Thể. Kitô giáo là đạo dẫn đưa con người vào mối hiệp thông với Chúa Kitô, nhờ đó được hiệp thông với Thiên Chúa, với nhau và với vũ trụ vạn vật trong tình yêu và hạnh phúc. Kitô giáo lại có Bí tích Thánh Thể do Chúa Kitô thiết lập, để Bí tích này vừa là dấu chỉ hiệp thông, vừa là phương thế xây dựng và bảo tồn sự hiệp thông kể trên. Bí tích Thánh Thể thực là mầu nhiệm Đức Tin. Vì thế, Kitô hữu cần tìm hiểu suy niệm mỗi ngày sâu sắc hơn, để có thái độ thích đáng đối với Bí tích cao quí tuyệt vời này. Bí tích Thánh Thể là Bí tích Tình Yêu: "Hội Thánh hằng bận tâm lo cho các Kitô hữu tham dự vào Mầu nhiệm Đức Tin này, không như những khách bàng quan câm lặng, nhưng là những người thấu đạt mầu nhiệm đó" (PV 48). Kitô hữu phải nhờ các nghi lễ, các kinh nguyện, Lời Chúa, và nhất là hiệp thông với Thánh Thể Chúa, để ngày càng cảm nghiệm hơn rằng: Tình yêu Chúa Kitô là cao sâu, vì Người là Thiên Chúa mà lại muốn cho ta là người phàm được hiệp thông với Người, Người còn lập Bí tích Thánh Thể để ta hiệp thông với Người cách dễ dàng hơn. Nhờ đó, ta được "thông phần bản tính Thiên Chúa" (2Pr 1,4). Tình yêu Người thật là rộng lớn, vì Người mời gọi tất cả mọi người thuộc mọi dân nước, không phân biệt giai cấp xã hội, không phân biệt chủng tộc hay màu da; bất cứ ai đều có thể tiếp nhận Người thật trọn vẹn, để được cứu độ (x. GH 13). Tình yêu Người thật chung thủy vững bền, vì từng giây từng phút, suốt dòng lịch sử, Người hằng ở cùng chúng ta cho tới ngày cánh chung (Mt 28,20). - Tình yêu Người còn đi đến tận cùng (Ga 13,1) của lòng yêu mến, yêu đến chết "để làm giá chuộc muôn người" (Mc 10,45), để họ được sống bởi Người (Ga 6,57), được sự sống đời đời (Ga 6,51), và còn được sống lại ngày sau hết (Ga 6,54), để hưởng hạnh phúc vĩnh hằng (MV 39). Kitô hữu tôn thờ Bí tích Thánh Thể: Đối với Bí Tích Thánh Thể là Mầu Nhiệm Đức Tin, và là Bí tích Tình Yêu, Hội Thánh mời gọi Kitô hữu lấy tình yêu đáp trả lại bằng việc tôn thờ Thánh Thể Chúa. Tôn thờ là yêu mến tha thiết, là nhìn nhận mình chỉ là thụ tạo trước Đấng Sáng Tạo toàn năng và cao cả, để thờ lạy, cảm tạ, tôn vinh, và hoàn toàn vâng phục ý Người. Tôn thờ Thánh Thể trong Phụng vụ Thánh Lễ là biểu lộ niềm tin Chúa hiện diện trong hình Bánh Rượu, bằng thái độ quì gối hoặc bái sâu. Và đỉnh cao nhất của lòng yêu mến tôn thờ là hiệp thông với Chúa bằng "ăn thịt và uống Máu Người" (Ga 6,56) (Rước Lễ), hoặc ước ao hiệp thông với Người (Rước lễ thiêng liêng). Ngoài Thánh Lễ, Hội Thánh còn hết sức cẩn thận gìn giữ Mình Thánh, để đem cho các tín hữu tôn thờ trọng thể (Chầu Mình Thánh, Giờ Thánh), hoặc kiệu Thánh Thể long trọng, hoặc để trao cho các bệnh nhân hay những người vắng mặt. Việc viếng Thánh Thể cũng là bằng chứng lòng biết ơn, là dấu chỉ tình yêu, và là bổn phận tôn thờ Chúa Kitô, Chúa chúng ta. (SGLC 1418).   Bài 32 THÁNH LỄ (x. SGLC từ 1345 đến 1419) "Điều tôi đã lãnh nhận từ Chúa, tôi xin truyền lại cho anh em: trong đêm bị nộp, Đức Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng tạ ơn, rồi bẻ ra và nói: Anh em cầm lấy mà ăn... đây là Mình Thầy hiến tế vì anh em; anh em hãy làm như Thầy vừa làm để tưởng nhớ đến Thầy. Cũng thế, cuối bữa ăn, Người nâng chén và nói: Đây là chén Máu Thầy, Máu đổ ra để lập Giao ước mới: mỗi khi uống, anh em hãy làm như Thầy vừa làm, để tưởng nhớ đến Thầy. Thật vậy, cho tới ngày Chúa đến, mỗi lần ăn Bánh và uống Chén này, là anh em loan truyền Chúa đã chịu chết. Vì thế, bất cứ ai ăn Bánh hay uống Chén của Chúa cách bất xứng, thì cũng phạm đến Mình và Máu Chúa" (1Cr 11, 23-27). "Ai ăn Thịt và uống Máu Tôi, thì được sống muôn đời, và Tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết" (Ga 6, 54). Trong Thánh Lễ, Đức Giêsu dâng Mình lên Thiên Chúa Cha làm lễ vật giao hòa, và ban Mình làm lương thực nuôi sống các tín hữu. Thánh Lễ vừa là hiến tế, vừa là Tiệc Thánh. I. Thánh lễ là Hiến tế của Chúa Kitô. Đức Giêsu đã hiến dâng chính mình trên thập giá, làm lễ tế hy sinh, để đền tội cho muôn dân, và "chỉ dâng một lần là đủ" (Dt 7,27). Nhưng Người muốn nối dài hiến tế thập giá trong Thánh Lễ, để liên kết chúng ta và chi thể của Người vào hiến tế độc nhất vô song của Người. Tính chất hiến tế thể hiện rõ trong những lời truyền phép: "Này là Mình Thầy sẽ bị nộp vì các con". "Này là chén Máu Thầy, Máu Giao ước mới sẽ đổ ra cho các con và mọi người được tha tội" (Lc 22, 19-20). Chúa Kitô dâng mình trên thập giá cũng chính là Chúa Kitô được Hội Thánh hiến dâng trong Thánh Lễ, nhờ thừa tác vụ Linh mục. Chỉ khác biệt ở cách dâng: "Ngày xưa, Chúa Kitô dâng chính mình trên bàn thờ thập giá cách đẫm máu; trong Thánh Lễ, hy tế thần linh cũng là Chúa Kitô, nhưng được dâng lên không đổ máu" (DS 1743). II. Thánh lễ là bàn tiệc Hiệp thông. Bí tích Thánh Thể là trung tâm và cao điểm của đời sống Hội Thánh. Trong Thánh lễ, Chúa Kitô liên kết Hội Thánh và mọi chi thể của Người vào hy lễ chúc tụng và tạ ơn. Bí tích Thánh thể biểu thị và thể hiện chính thực chất của Hội Thánh, là hiệp thông vào đời sống của Thiên Chúa, và hiệp nhất dân Thiên Chúa" (Huấn thị "Mầu Nhiệm Thánh Thể" 6). Bởi vì trong Chúa Kitô "Hội Thánh là Bí tích, nghĩa là dấu chỉ và khí cụ của sự kết hợp mật thiết giữa con người với Thiên Chúa, và của sự hiệp nhất toàn thể nhân loại" (GH 1). Nhờ kết hợp với Mình và Máu Chúa Kitô, tất cả mọi tín hữu trở nên một thân thể (x. 1Cr 10, 16-17). Bí tích Thánh Thể là Bí tích hiệp thông: các tín hữu hiệp thông với Chúa Kitô là Đầu, và các tín hữu hiệp thông với nhau, như những chi thể của một thân thể duy nhất. Bàn tiệc Thánh Thể chính là bàn tiệc yêu thương hiệp nhất, và nhờ cử hành Bí tích Thánh Thể, ngay từ bây giờ, chúng ta được kết hiệp với Phụng vụ trên trời, và dự trước cuộc sống vĩnh cửu. III. Hội thánh dâng Thánh lễ vì ý nào? Ngay từ những ngày đầu, cộng đoàn Hội Thánh đã ý thức cử hành Thánh Lễ theo như lệnh tuyền của Chúa Kitô, bao lâu còn lữ hành trên trần thế. Vì vậy trong Thánh Lễ, Hội Thánh tuyên xưng rằng: "Lạy Chúa, chúng con loan truyền Chúa đã chịu chết, và tuyên xưng Chúa đã sống lại, cho tới khi Chúa lại đến" (Lời tung hô sau truyền phép). Hội Thánh dâng lễ vì những ý nào? 1. Để tạ ơn và ca ngợi Thiên Chúa Cha: Bí tích Thánh Thể trước hết là "hy tế tạ ơn". Trong hy tế Thánh Thể, nhờ Chúa Kitô đã chết và đã sống lại, Hội Thánh tạ ơn Thiên Chúa vì mọi ân huệ Người đã ban qua công trình sáng tạo, cứu chuộc và thánh hóa. Bí tích Thánh Thể còn là "hy tế ca ngợi", vì "chính nhờ Chúa Kitô, cùng với Chúa Kitô, và trong Chúa Kitô", Hội Thánh dâng lời ca ngợi vinh quang Thiên Chúa, nhân danh toàn thể thọ sinh. 2. Để tưởng niệm hy tế của Chúa Kitô và của Hội Thánh: Bí tích Thánh Thể là tưởng niệm cuộc Vượt Qua của Chúa Kitô, hiện tại hóa và hiến dâng trong Phụng vụ của Hội Thánh là thân thể Người. Theo Kinh Thánh, tưởng niệm không chỉ là nhớ lại, mà còn làm cho những biến cố đã qua thành hiện tại và hiện diện sống động giữa cộng đoàn. Khi Hội Thánh cử hành Thánh Thể, cuộc Vượt Qua của Chúa Kitô trở nên hiện diện giữa cộng đoàn, vì lễ tế của Chúa Kitô trên thập giá luôn sống động, để đem lại ơn cứu độ cho mọi người ở mọi thời đại. "Mỗi lần hy tế thập giá được cử hành trên bàn thờ, nhờ đó Chúa Kitô, Chiên Vượt Qua của chúng ta chịu hiến tế, thì công trình cứu chuộc chúng ta được thực hiện" (GH 3). Đàng khác, Thánh Lễ cũng là hy tế của Hội Thánh. Là thân thể của Chúa Kitô, Hội Thánh tham dự vào lễ tế của Chúa Kitô là Đầu. Trong Thánh lễ, hy tế của Chúa Kitô trở thành hy tế của mọi chi thể trong thân thể. Toàn thể đời sống của các tín hữu: bản thân, lời ca ngợi, đau khổ, kinh nguyện, công ăn việc làm, đều được kết hợp với Chúa Kitô trong lễ dâng toàn hiến. 3. Để chuyển cầu cho các tín hữu và toàn thể nhân loại: Trong Thánh Lễ, toàn thể Hội Thánh kết hiệp với Chúa Kitô trong việc hiến dâng và chuyển cầu. Cộng đoàn Phụng vụ Thánh Thể nhắc nhở và cầu nguyện cho Đức Giáo Hoàng, Đức Giám mục giáo phận, Linh mục chủ tế cũng như mọi tín hữu. Và không phải chỉ có những tín hữu còn tại thế, mà cả những vị được hưởng vinh quang trên trời cũng được kết hiệp với hy tế của Chúa Kitô. Hội Thánh dâng lễ trong tâm tình kính nhớ "Đức Trinh Nữ Maria, Thánh Mẫu của Thiên Chúa, các tông đồ và toàn thể các Thánh". Thánh Lễ cũng được dâng lên để cầu cho các tín hữu đã qua đời, để họ chóng được vào hưởng ánh sáng và bình an của Chúa Kitô. Sau cùng toàn thể nhân loại, cũng như tất cả vũ trụ cũng được hưởng nhờ ơn phúc của Thánh Lễ. VI. Thánh Lễ có mấy phần? Thánh Lễ diễn tiến theo một cấu trúc cơ bản được duy trì nhiều thế kỷ cho đến nay. Thánh Lễ chia làm hai phần chính, nhưng liên kết chặt chẽ với nhau thành một thể thống nhất: Phụng vụ Lời Chúa và Phụng vụ Thánh Thể, được đóng khung bằng nghi thức đầu lễ và nghi thức kết lễ. Nghi thức đầu lễ: Cộng đoàn tín hữu tụ họp lại một nơi để cử hành Thánh Lễ. Chính Chúa Kitô triệu tập cộng đoàn, và chủ tọa buổi lễ. Đại diện hữu hình của Người là Đức Giám mục hay Linh mục chủ tọa cộng đoàn, diễn giảng các bài đọc, tiếp nhận lễ vật, và đọc kinh Tạ Ơn. Nghi thức đầu lễ bao gồm việc sám hối. 1. Phụng Vụ Lời Chúa: Đọc các bài Kinh Thánh rút ra từ Cựu ước và Tân ước. Bài diễn giảng giúp mọi người hiểu, đón nhận và thực hành Lời Chúa trong cuộc sống. Lời nguyện tín hữu (hay Lời nguyện chung) cầu cho mọi người (x. 1Tm 2,1-2). 2. Phụng vụ Thánh Thể: Chuẩn bị lễ vật: bánh, rượu được đem lên bàn thờ, và chủ tế dâng lên Thiên Chúa, lễ vật sẽ trở thành Mình Máu Chúa Kitô. Cùng với bánh rượu, các tín hữu có thể mang theo tặng phẩm, để giúp đỡ những người túng thiếu. Kinh Tạ Ơn (Kinh nguyện Thánh Thể): là trung tâm của cuộc cử hành Thánh Thể. Kinh tiền tụng: Hội Thánh tạ ơn Chúa Cha, nhờ Chúa Kitô, trong Chúa Thánh Thần, về tất cả công trình sáng tạo, cứu chuộc và thánh hóa. Toàn thể cộng đoàn tung hô: Thánh, Thánh, Thánh. Kinh cầu xin Chúa Thánh Thần: Hội Thánh cầu xin Chúa Thánh Thần đến, làm cho bánh rượu trở nên Mình Máu Đức Giêsu Kitô. Trình thuật việc lập Bí tích Thánh Thể: nhờ hiệu lực Lời và cử chỉ của Chúa Kitô, cũng như quyền năng Chúa Thánh Thần, bánh rượu trở thành Mình Máu Chúa Kitô. Kinh tưởng niệm: Hội Thánh tưởng nhớ đến cuộc khổ nạn, phục sinh và quang lâm của Đức Giêsu Kitô. Kinh chuyển cầu: hy lễ tạ ơn được cử hành trong sự hiệp thông với toàn thể Hội Thánh, cả thiên quốc lẫn trần gian, kẻ sống cũng như người đã qua đời. Hội Thánh địa phương cũng như Hội Thánh toàn cầu. Hiệp lễ: Kinh Lạy Cha và việc bẻ bánh đi trước phần Hiệp Lễ. Các tín hữu rước lễ tức là lãnh nhận chính Mình Máu Chúa Kitô, Đấng tự hiến "để cho thế gian được sống" (Ga 6,51). Nghi thức kết lễ: Chủ tế ban phép lành và giải tán cộng đoàn. V. Điều kiện rước lễ. Việc cử hành hy tế Thánh Thể hướng đến việc các tín hữu kết hợp với Chúa Kitô nhờ rước lễ. Chúa khẩn thiết mời gọi chúng ta đón rước Người: "Thật, Tôi bảo thật các ông: nếu các ông không ăn Thịt và uống Máu Con Người, các ông không có sự sống nơi mình" (Ga 6,53). Hội Thánh khuyên các tín hữu có đủ điều kiện, rước lễ mỗi khi tham dự Thánh Lễ: "Nên khuyến khích tín hữu tham dự Thánh Lễ trọn vẹn hơn, qua việc lãnh nhận Mình Thánh Chúa ngay trong Thánh Lễ, sau khi linh mục rước lễ" (PV 55). Hơn nữa, Hội Thánh buộc các tín hữu phải tham dự Thánh Lễ vào các ngày Chúa Nhật, Lễ Trọng và rước lễ mỗi năm ít là một lần vào Mùa Phục Sinh (x. G1 920). Để chuẩn bị rước lễ cho xứng đáng, các tín hữu cần: Tra vấn lại lương tâm, để khỏi rước lễ cách bất xứng là lãnh án phạt (x.1Gr 11, 27-29). Nếu mắc tội trọng, phải đi xưng tội trước khi lên rước lễ. Khiêm tốn và tin tưởng như viên đại đi trưởng: "Lạy Chúa, con chẳng đáng Chúa ngự đến cùng con..." (Mt 8,8). Giữ chay Thánh Thể: nghĩa là không ăn hay uống (trừ nước lã và thuốc chữa bệnh) một giờ trước khi rước lễ. Thái độ bên ngoài (cử chỉ, cách ăn mặc) phải biểu lộ lòng tôn kính, sự trang trọng và niềm vui được Chúa ngự đến. Ngoài ra cần làm hòa với người khác trước khi nhận lãnh Bí tích hiệp nhất yêu thương (x. Mt 5, 23-24). VI. Hiệu quả của việc Rước Lễ. Hiệu quả chính yếu của việc rước lễ là được kết hiệp thâm sâu với Chúa Kitô, sống nhờ Người và nên một với Người. "Ai ăn Thịt và uống Máu Tôi, thì ở lại trong Tôi, và Tôi ở lại trong người ấy. Như Chúa Cha là Đấng hằng sống đã sai Tôi, và Tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào, thì kẻ ăn Tôi cũng sẽ nhờ Tôi mà được sống như vậy" (Ga 6, 56-57). "Bởi vì việc tham dự vào Mình và Máu Chúa Kitô không có công hiệu nào khác hơn là biến đổi chúng ta thành Đấng mà chúng ta nhận lãnh" (Thánh Lêô Cả) (GH26). Như của ăn vật chất mang lại sự sống cho thân xác thế nào, việc rước lấy Mình của Đấng Phục sinh cũng gìn giữ, phát triển và canh tân đời sống ân sủng đã nhận lãnh trong Bí tích Thánh Tẩy. Bánh Thánh Thể dưỡng nuôi người tín hữu trong cuộc lữ hành trần thế, và thành Của Ăn Đàng cho họ lúc lâm chung. Việc rước lễ giúp chúng ta xa lánh tội lỗi, nhờ kết hợp với Chúa Kitô, Đấng tẩy xóa tội lỗi loài người. Thánh Thể khơi dậy đức mến sống động trong tâm hồn, có thể xóa đi các tội nhẹ, và gìn giữ ta khỏi phạm tội trọng. Hiệp nhất các Kitô hữu trong Hội Thánh (x. GH 11). Bí tích Thánh Tẩy tháp nhập ta vào Hội Thánh; Bí tích Thánh Thể canh tân, củng cố và kiện toàn sự tháp nhập này. Việc rước lễ kết hiệp người tín hữu với Chúa Kitô, Đấng kết hiệp tất cả các tín hữu với Chúa Kitô, Đấng kết hiệp tất cả các tín hữu thành một thân thể duy nhất là Hội Thánh (x. 1Cr 10, 16-17). Hơn nữa, Bí tích Thánh Thể còn là lời mời gọi khẩn thiết các tín hữu đã ly khai, hiệp nhất trong một Hội Thánh duy nhất. Thánh Âu tinh đã thốt lên: "Ôi Bí tích Tình Yêu! Dấu chỉ Hiệp Nhất! Mối dây Bác ái!". Sau cùng việc lãnh nhận Mình Máu Chúa Kitô, đòi buộc chúng ta nhận ra Người nơi những người nghèo khổ nhất, để chăm sóc (x. Mt 25, 40). Bảo chứng cho vinh quang mai sau. Chúa đã long trọng hứa: "Ai ăn Thịt và uống Máu Tôi thi được sống muôn đời, và Tôi sẽ cho người ấy sống lại ngày sau hết" (Ga 6, 54). Vì là lễ tưởng niệm cuộc Vượt Qua của Chúa, Bí tích Thánh Thể còn là tiền dự vào vinh quang thiên quốc. Trong một Kinh Nguyện cổ, Hội Thánh ca tụng mầu nhiệm Thánh Thể như sau: "Ôi Tiệc Thánh! Chúa Kitô đã trở thành lương thực cho chúng ta: tiệc tưởng niệm cuộc khổ nạn của Người, ban cho ta hồng ân viên mãn, và bảo chứng cho vinh quang mai sau". VII. Sống Thánh lễ trong cuộc đời. Người giáo dân Việt Nam rất siêng năng "đi lễ", nhưng vì thiếu hiểu biết, họ chỉ "xem lễ" như khán giả xem kịch. Khi đi dâng lễ, người tín hữu không chỉ dâng Đức Giêsu lên Thiên Chúa Cha, mà còn phải liên kết với Đức Giêsu mà dâng chính mình thành của lễ, để lễ tế vô giá của Con Một Thiên Chúa, cũng trở thành lễ tế của mỗi tín hữu qua các thời đại: "Trong khi dâng lễ vật tinh tuyền, không chỉ nhờ tay linh mục, mà còn liên kết với ngài, họ tập dâng chính mình" (PV 48). Thánh lễ là "nguồn mạch và tột đỉnh của đời sống Kitô hữu" (GH 11), nên mọi hoạt động của người Kitô hữu đều phải bắt nguồn nơi Thánh Lễ, và qui hướng về Thánh Lễ. Cuộc đời là Thánh Lễ nối dài, nghĩa là những ân phúc nhận được nơi Thánh Lễ qua Lời Chúa, qua việc kết hợp với Thánh Thể và hiệp thông với cộng đoàn, phải trở thành ánh sáng soi dẫn và sức mạnh nâng đỡ cho mọi hoạt động tôn giáo cũng như trần thế. Ngược lại, người Kitô hữu phải làm cho tất cả cuộc đời thành Thánh Lễ: Lễ Dâng Cuộc Đời! "Mọi hoạt động, Kinh nguyện và công cuộc tông đồ, đời sống hôn nhân và gia đình, công ăn việc làm thường ngày, việc nghỉ ngơi thể xác và tinh thần, nếu họ chu toàn trong Thánh Thần, và cả đến những thử thách của cuộc sống nếu họ kiên trì đón nhận, thì tất cả đều trở nên hiến lễ thiêng liêng đẹp lòng Thiên Chúa, nhờ Đức Giêsu Kitô (x. 1Pr 2,5), được thành kính dâng lên Chúa Cha cùng với Mình Thánh Chúa, khi cử hành Phép Thánh Thể" (GH 34). Bài 33 BÍ TÍCH HÒA GIẢI (x. SGLC từ 1420 đến 1484) "Những ai đến lãnh nhận bí tích Hòa giải, đều được Thiên Chúa nhân từ tha thứ những xúc phạm đến Người. Đồng thời họ được giao hòa cùng Hội Thánh mà tội lỗi họ đã làm tổn thương. Hội Thánh hằng nỗ lực lấy Đức Ái, gương lành và kinh nguyện, để hoán cải họ" (GH 11) Bí tích Hòa giải còn được gọi là Bí tích Giải tội, bí tích Cáo giải, bí tích Sám Hối. Nhưng dù tên gọi nào chăng nữa, vẫn luôn hàm chứa hai nội dung chính yếu: sự hoán cải của hối nhân và tình thương tha thứ của Thiên Chúa. Tìm hiểu bí tích Hòa giải là cơ hội giúp ta khám phá tình thương của Thiên Chúa, và cảm nghiệm đó thúc đẩy ta sám hối, mỗi ngày và mọi ngày trong suốt cuộc đời. I. Tiếng gọi hoán cải "Thời giờ đã mãn và nước Thiên Chúa đã gần đến. Anh em hãy ăn năn thống hối và tin vào Tin Mừng" (Mc 1,15). Tiếng gọi hoán cải là thành phần thiết yếu trong lời công bố Nước Trời. Tiếng gọi ấy trước hết được gửi đến những ai chưa nhận biết Chúa Kitô và Tin Mừng của Ngài. Vì thế, Thánh Tẩy là bí tích tha tội và dẫn đưa ta vào đời sống mới. Tuy nhiên, tiếng gọi ấy vẫn tiếp tục được gửi đến cho những người đã chịu Thánh Tẩy, vì kinh nghiệm cuộc sống cho thấy ta vẫn tiếp tục phạm tội sau khi đã chịu Thánh Tẩy. "Nếu ta nói rằng mình không có tội, ta tự lừa dối mình, và sự thật không có trong ta" (1Ga 1,8). Chính Đức Giêsu cũng dạy ta cầu nguyện: "Xin Cha tha tội chúng con" (x. Lc 11,4). Bởi vì tuy bí tích Thánh Tẩy dẫn ta vào đời sống mới, nhưng không hủy diệt sự yếu đuối và hướng chiều về tội nơi con người tự nhiên. Chính vì thế, hoán cải là cả một hành trình dài và cuộc sống người tín hữu là cuộc chiến đấu liên lỉ chống lại tội lỗi. "Hội Thánh ôm ấp những kẻ có tội trong lòng mình, nên vừa thánh thiện vừa phải luôn thanh tẩy mình. Do đó, Hội Thánh luôn thực hiện việc sám hối và canh tân" (GH 8). Sự hoán cải mà Đức Giêsu mời gọi là sự hoán cải nội tâm, hoán cải của con tim. Chỉ khi nào có sự hoán cải sâu xa đó, những việc làm bên ngoài mới có ý nghĩa: những cử chỉ, lời kinh, việc làm đền tội. Sự hoán cải ấy là sự thay đổi sâu xa hướng đi của cả cuộc đời: một đàng là buồn phiền, hối hận vì tội, và dứt khoát với cái xấu; đàng khác là quyết tâm thay đổi đời sống, trông cậy và tín thác vào Chúa. Hoán cải như thế không phải là việc dễ dàng. Vì thế, hoán cải trước hết là công việc của ân sủng Thiên Chúa. Chính Chúa nâng đỡ, để ta có thể làm lại cuộc đời. Càng khám phá tình thương của Chúa, ta càng khinh ghét tội lỗi và không muốn bị xa cách Chúa. Thánh Thần vừa là Đấng soi sáng giúp ta nhận ra con người thật và tội lỗi của mình, vừa là Đấng An ủi giúp ta ăn năn sám hối. II. Bí tích Hòa giải Tội là bẻ gãy mối hiệp thông không những với Chúa mà với cả Hội Thánh. Vì thế, ta cần được Thiên Chúa tha thứ và cần giao hòa với Hội Thánh. Ý nghĩa đó được thể hiện đầy đủ trong Bí tích Hòa giải. "Không ai có quyền tha tội ngoại trừ một mình Thiên Chúa" (Mc 2,7). Đúng như thế. Nhưng Chúa Kitô chính là Thiên Chúa nên Ngài có quyền tha tội: "Tội lỗi của con đã được tha" (Mc 2,5). Sau đó, Ngài ban cho Hội Thánh quyền tha tội nhân danh Ngài (x. Ga 20,21-23). Đồng thời trong cuộc sống trần thế, khi Đức Giêsu tha tội cho ai, Ngài cũng đưa họ hội nhập cộng đoàn dân Chúa. Vì thế, khi trao cho các quyền tha tội, Ngài cũng trao cho các ông quyền giao hòa tội nhân với Hội Thánh: "Các con cầm buộc ai, trên trời cũng cầm buộc. Các con cởi mở cho ai, trên trời cũng cởi mở" (Mt 16,19). Hội Thánh đã thực thi quyền bính Đức Giêsu trao phó trong cử hành Bí tích Hòa giải. Trong suốt chiều dài lịch sử, hình thức cử hành có thể thay đổi, nhưng vẫn luôn luôn giữ cơ cấu nền tảng với hai yếu tố quan trọng: một đàng là hành vi của hối nhân: thống hối, xưng tội, đền tội; đàng khác là hành động của Thiên Chúa qua Hội Thánh: Giám mục và Linh mục nhân danh Chúa mà tha tội và ra việc đền tội cho hối nhân. Công thức tha tội chứa đựng nội dung chính yếu của Bí tích: "Thiên Chúa là Cha hay thương xót đã nhờ sự chết và sống lại của Con chúa mà giao hòa thế gian với Chúa, và ban Thánh Thần để tha tội. Xin Chúa dùng tác vụ của Hội Thánh mà ban cho con ơn tha thứ và bình an. Vậy cha tha tội cho con, Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần". III. Hành vi của hối nhân 1. Thống hối: Thống hối là buồn phiền, chê ghét tội đã phạm và dốc lòng không phạm tội nữa (x. CĐ Trentô). Người ta thường phân biệt: thống hối toàn vẹn và thống hối bất toàn. Thống hối toàn vẹn là thống hối vì lòng mến, mến Chúa trên hết mọi sự. Lòng thống hối đó khiến hối nhân được tha các tội nhẹ và tha cả tội trọng nếu cương quyết lãnh nhận Bí tích Hòa giải sớm hết sức có thể. Thống hối bất toàn là thống hối vì sợ, sợ án phạt đời đời và sợ các hình phạt khác. Lòng thống hối ấy cũng là ân huệ của Thiên Chúa, thúc đẩy hối nhân làm hòa với Chúa và Hội Thánh cách trọn vẹn trong Bí tích Hòa giải. 2. Xưng tội: Bằng việc xưng tội, hối nhân nhìn thẳng vào tội lỗi của mình, nhận trách nhiệm và mở lòng ra với Chúa cũng như với Hội Thánh, để sống đời sống mới. Đây là thành phần thiết yếu của Bí tích Hòa giải. Vì thế, Hội Thánh đòi hối nhân phải xưng thú mọi tội trọng, kể cả những tội thầm kín, vì "nếu bệnh nhân mà xấu hổ nên che dấu vết thương, làm sao lương y có thể biết mà chữa lành" (x. CĐ Trentô). Ngoài ra, còn có những đòi hỏi liên quan đến Bí tích Hòa giải: Mỗi tín hữu bó buộc phải xưng các tội trọng một năm ít là một lần. Khi biết mình đang mắc tội trọng, không được rước Mình Thánh Chúa nếu chưa xưng tội, trừ khi không thể đi xưng tội, có thể giục lòng ăn năn sám hối. Trước khi được Rước Lễ lần đầu, trẻ em phải lãnh nhận Bí tích Hòa giải. Hội Thánh cũng khuyên tín hữu xưng các tội nhẹ. Việc xưng tội thường xuyên giúp ta huấn luyện lương tâm, chiến đấu chống lại các khuynh hướng xấu, được Chúa Kitô nâng đỡ và tiến bước trong đời sống mới. 3. Đền tội: Tội là hành động nằm trong tương quan với Thiên Chúa và tha nhân. Tội gây thiệt hại cho tha nhân, vì thế phải đền bù; chẳng hạn: trả lại đồ vật đã lấy cắp, khôi phục danh dự cho người khác... Ngoài ra, tội còn làm cho chính bản thân ta yếu đi và mối tương quan với Thiên Chúa và tha nhân bị tổn thương. Chính vì thế, cùng với ơn tha tội, hối nhân còn phải làm việc gì đó đền bù, và phục hồi sức mạnh thiêng liêng. Đó là ý nghĩa đền tội. Việc đền tội có thể là kinh nguyện, việc bác ái, hãm mình, phục vụ tha nhân... Cha giải tội sẽ tùy theo mức độ tội phạm của hối nhân mà ra việc đền tội cho thích hợp và ích lợi. Việc đền tội giúp ta nên giống Chúa Kitô, Đấng duy nhất đền thay tội lỗi cho ta. IV. Thừa tác viên của Bí tích Hòa giải. Thừa tác viên của Bí tích Hòa giải là các Giám mục kế vị các Tông đồ, và các linh mục là những người cộng tác của hàng Giám mục. Nhờ ân sủng lãnh nhận qua Bí tích Truyền Chức Thánh, các ngài tha thứ mọi tội lỗi "Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần". Nhờ ơn tha thứ này, các hối nhân được giao hòa với Thiên Chúa và Hội Thánh. Khi cử hành Bí tích Hòa giải, cha giải tội đóng vai trò Người Mục tử tốt lành kiếm tìm con chiên lạc, người Samari nhân hậu băng bó vết thương, người cha giàu lòng thương xót đợi chờ và hân hoan đón tiếp đứa con hoang đàng trở về; đồng thời là vị thẩm phán công bằng và thương xót. Tóm lại linh mục là dấu chỉ và khí cụ của tình thương Thiên Chúa dành cho hối nhân. Vì là tôi tớ phục vụ cho ơn tha thứ của Thiên Chúa, cha giải tội phải mang trong mình những tâm tình và ý tưởng của Chúa Kitô. Ngài phải có hiểu biết và kinh nghiệm về cuộc sống con người, phải biết tôn trọng và nhạy cảm với những ai sa ngã; đồng thời ngài phải yêu mến sự thật, trung thành với giáo huấn của Hội Thánh, và kiên nhẫn giúp hối nhân đi lên trên con đường thánh thiện. Vì sự cao cả của Bí tích và vì lòng kính trọng đối với con người, Hội Thánh đòi buộc cha giải tội phải giữ bí mật tuyệt đối về những tội hối nhân đã xưng thú. Bí mật đó được gọi là Ấn Tòa Giải Tội và cha giải tội phải tôn trọng tuyệt đối.   V. Cử hành và hiệu quả của Bí tích Hòa giải. 1. Cử hành: Thông thường, Bí tích Hòa giải được cử hành theo thể thức như sau: linh mục chào hỏi và chúc lành cho hối nhân, đọc Lời Chúa để soi sáng lương tâm và khơi dậy tâm tình thống hối; sau đó hối nhân xưng thú tội lỗi, rồi linh mục ra việc đền tội và giải tội. Cuối cùng là kinh tạ ơn và chúc lành của linh mục. Bí tích Hòa giải cũng có thể được cử hành trong khung cảnh sám hối cộng đồng. Cộng đoàn cùng cử hành Phụng vụ Lời Chúa, nghe giảng, xét mình và sám hối chung, nhưng sau đó mỗi người sẽ xưng tội riêng với linh mục. Việc cử hành này làm nổi bật ý nghĩa Hội Thánh của Bí tích Hòa giải. Trong trường hợp khẩn thiết như nguy tử, hoặc không đủ các linh mục giải tội, khiến giáo dân không thể Rước Lễ, có thể cử hành hòa giải cộng đồng và tha tội chung. Tuy nhiên, xưng tội và giải tội riêng vẫn là hình thức thông thường nhất; trong đó Chúa Kitô nói với từng người: "Cha tha tội cho con". Ngài là Thầy Thuốc chăm sóc từng bệnh nhân và dẫn đưa họ trở về với sự hiệp thông huynh đệ. Cho dù giải tội riêng, đừng quên rằng ở tự bản chất, cử hành bí tích là một hành vi phụng vụ, và vì thế mang tích công khai và Cộng đoàn Hội Thánh. 2. Hiệu quả Mục đích và hiệu quả của Bí tích Hòa giải là cho ta được làm hòa với Chúa. Đây là ơn phục sinh thiêng liêng, hồi phục tư cách và phẩm giá làm con Thiên Chúa của hối nhân. Ai lãnh nhận bí tích với lòng thống hối chân thành còn cảm nhận được sự bình an và thanh thản trong tâm hồn. Cùng với hiệu quả trên, Bí tích còn hòa giải ta với Hội Thánh. Tội lỗi làm tổn thương và có khi bẻ gẫy mối hiệp thông huynh đệ. Bí tích Hòa giải khôi phục lại mối hiệp thông đó, và như thế, không những Bí tích chữa lành hối nhân mà còn ảnh hưởng tốt đẹp đến cả Hội Thánh. Đồng thời nhờ sự hiệp thông những của cải thiêng liêng trong Hội Thánh, ta được mạnh sức hơn trên đường về Quê Trời. Vào buổi xế chiều cuộc sống, mỗi chúng ta sẽ phải ra trước Tòa Chúa. Nhưng ngay từ hôm nay, khi nhận lãnh Bí tích Hòa giải, ta đã ra trước Tòa Chúa, và nhờ ơn Bí tích, ta được ngang qua cõi chết mà vào cõi sống: "Quả thật Ta bảo các ngươi: ai nghe Lời Ta và tin vào Đấng đã sai Ta thì có sự sống đời đời và khỏi đến Tòa phán xét, nhưng đã ngang qua sự chết mà vào sự sống" (Ga 5,24). VI. Để sống lòng sám hối. Ngày nay nhiều người trẻ ngại đi xưng tội, và các bạn lý luận: xưng xong rồi lại tiếp tục phạm tội, thà không xưng thì hơn. Ẩn bên trong lý luận ấy lại là sự thất vọng về chính mình, và thiếu lòng cậy trông vào Chúa. Cần ý thức rằng hoán cải là cả một hành trình dài, và phải dám tin vào tình thương tha thứ của Chúa, tình thương của người cha hằng chờ đợi chúng ta. Xét mình hằng ngày, chân thành thống hối và quyết tâm gắn bó với Chúa là điều ta có thể và phải làm mỗi ngày. Những việc làm đó giúp ta luôn sống trong Ơn Hòa giải, và thúc đẩy ta sống đời Kitô hữu tốt đẹp hơn. Không những làm việc đền tội mỗi khi đi xưng tội, Hội Thánh còn khuyên ta thực hiện nhiều hình thức đền tội khác trong cuộc sống hằng ngày. Ba hình thức quen thuộc nhất: cầu nguyện, ăn chay và làm việc bác ái. Những hình thức này vừa giúp ta chế ngự bản thân, vừa dẫn ta vào cuộc sống hài hòa với Chúa, với mọi người. Bài 34 BÍ TÍCH XỨC DẦU BỆNH NHÂN (x. SGLC từ 1499 đến 1532) "Bằng Phép Xức Dầu Thánh và lời cầu nguyện của các Linh mục, toàn thể Hội Thánh phó thác bệnh nhân cho Đức Kitô đau khổ và hiển vinh, để Người an ủi và cứu rỗi họ. Hơn nữa, Hội Thánh còn thúc giục họ sẵn sàng kết hợp với Đức Kitô chịu đau khổ và chịu chết để mưu ích cho dân Thiên Chúa". (HT 11) I. Ý nghĩa và hiệu quả của Bí tích Xức Dầu bệnh nhân. 1. Ý nghĩa Bí tích Xức Dầu bệnh nhân: Bệnh tật và đau khổ luôn là những lo âu triền miên của con người. Khi bệnh tật, con người càng cảm nghiệm được giới hạn và bất lực của mình. Có khi bệnh tật đưa con người tới chỗ tuyệt vọng, nhưng bệnh tật cũng có thể dẫn đưa con người tới gặp gỡ Thiên Chúa. Dân Thiên Chúa trong thời Cựu ước than van về bệnh tật của mình trước nhan Thiên Chúa, cầu khẩn Ngài chữa lành, vì tin tưởng Ngài là Chúa của sự sống và sự chết: "Lạy Giavê, xin dủ thương vì tôi thân tàn sức kiệt, xin chữa tôi. Lạy Giavê, vì xương tôi rã rời" (Tv 6,3). Con người thời Cựu ước còn quan niệm: tội lỗi là căn nguyên của bệnh tật và sự chết, nên họ thống hối và cầu xin Thiên Chúa cứu chữa, như trường hợp vua Ê-giê-ki-a. Ông nói: "Ôi, lạy Giavê, xin nhớ lại là tôi đi trước nhan Người cách trung tín, một lòng thành, điều đẹp mắt Ngài tôi đã làm" (Is 38,3, và Thiên Chúa đã cứu chữa ông: "Ta đã nghe lời ngươi khẩn cầu. Ta thấy nước mắt của ngươi. Này Ta sẽ thêm cho đời ngươi mười lăm năm nữa" (Is 38,5). Tình thương của Thiên Chúa với bệnh nhân càng rõ nét nơi Chúa Kitô. Ngài chữa lành mọi loại bệnh tật: "Tiếng tăm Ngài đồn khắp xứ Syri. Người ta đem đến cho Ngài những người đau ốm mắc đủ thứ bệnh tật: những người bị quỷ ám, kinh phong, bất toại, và Ngài đã chữa lành họ" (Mt 4, 24). Chẳng những chữa lành bệnh tật, Ngài còn có quyền tha tội lỗi (x. Mc 2, 5-12). Vì Ngài đến để chữa lành con người toàn diện hồn và xác. Sự cảm thương của Ngài với bệnh nhân tới mức Ngài đã đồng hóa với họ: "Ta đau yếu và các ngươi đã đến thăm ta" (Mt 25,36); và "Ngài đã nhận lấy những tàn tật của chúng ta, và đã gánh lấy những bệnh nạn của chúng ta" (Is 53, 4). Nhưng không phải lúc nào Ngài cũng chữa lành bệnh tật, vì sự chữa lành bệnh tật chỉ là những dấu chỉ loan báo sự chữa lành triệt để: đó là chiến thắng tội lỗi và cái chết, nhờ sự phục sinh của Ngài. Vì như chúng ta đã biết, bệnh tật chỉ là một hậu quả của tội lỗi, nhưng Chúa Kitô "đã xóa tội trần gian" (Ga 1,29). Vì thế, đau khổ bệnh tật có thể làm cho con người trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô. Vì tình thương xót các bệnh nhân, Chúa Kitô mời gọi các môn đệ của Ngài chia sẻ thừa tác vụ cảm thương và chữa lành của Ngài. Vì thế: "Các ông ra đi giảng dạy để người ta sám hối, và các ông xua đuổi nhiều ma quỷ, các ông xức dầu cho nhiều bệnh nhân và chữa họ lành" (Mc 6, 12-13). Sau khi phục sinh, Chúa Kitô vẫn lập lại: "Nhân danh Thầy, họ sẽ đặt tay trên các bệnh nhân, và những người này được chữa lành" (Mc 16, 17-18). Qua lời xác quyết của Marcô (Mc 6, 12-13): "Họ ra đi rao giảng cho người ta hối cải, và xua trừ nhiều ma quỷ, cùng đã xức dầu mà chữa lành nhiều kẻ ốm đau". Và lời của Giacôbê 5,14: "Ai trong anh em yếu liệt, hãy mời các vị niên trưởng của Hội Thánh, để họ cầu nguyện cho người đó. Sau khi đã xức dầu cho người đó nhân danh Chúa, lời cầu nguyện của đức tin sẽ cứu chữa người đau ốm, và Chúa sẽ vực người đó dậy... ". Nên Hội Thánh tin tưởng và tuyên xưng Xức Dầu Bệnh nhân là một trong bảy Bí tích Đức Giêsu đã thiết lập, mà Hội Thánh luôn cử hành để thêm sức mạnh cho các bệnh nhân. 2. Hiệu quả của Bí tích Xức Dầu Bệnh nhân: Ân sủng đặc biệt của Bí tích Xức Dầu Bệnh nhân mang lại những hiệu quả sau đây: Kết hợp bệnh nhân với cuộc khổ nạn của Chúa Kitô, để sinh ơn ích cho chính bệnh nhân và cho Giáo Hội. Niềm an ủi, sự bình an và lòng can đảm, để chịu đựng những đau khổ của bệnh tật hoặc của tuổi già với tinh thần Kitô giáo. Ơn tha thứ tội lỗi, nếu bệnh nhân chưa nhận được ơn tha thứ nhờ Bí tích Hòa giải. Phục hồi sức khỏe, nếu điều này phù hợp với ơn cứu độ cho linh hồn bệnh nhân. Chuẩn bị cho cuộc vượt qua sang đời sống vĩnh cửu (GLCG). II. Thụ nhân và Thừa tác viên. 1. Thụ nhân của Bí tích Xức Dầu Bệnh nhân: Xức dầu bệnh nhân không chỉ là bí tích cho những Người sắp chết, nhưng còn dành cho những ai có nguy cơ tử vong do bệnh tật hoặc vì tuổi già. Khi bệnh nhân đã được xức dầu, rồi khỏe lại, sau đó bị bệnh nặng, họ có thể lãnh Bí tích Xức Dầu Bệnh nhân lần nữa. Cả trước khi chịu cuộc giải phẫu nặng, bệnh nhân cũng nên nhận phép Xức Dầu. 2. Thừa tác viên Bí tích Xức Dầu Bệnh nhân: Chỉ có các vị tư tế, nghĩa là Giám mục hay Linh mục mới có quyền ban Bí tích Xức Dầu Bệnh nhân. Dù cử hành tại tư gia, hay bệnh viện, Bí tích Xức Dầu Bệnh nhân luôn là một cử hành phụng vụ có tính cách cộng đoàn. Nhưng yếu tố chính của Bí tích này là: "Các Linh mục của Hội Thánh" (GL 5,14) đặt tay, cầu nguyện cho bệnh nhân trong niềm tin của Hội Thánh" (x GL 5,15), rồi linh mục xức dầu đã thánh hiến cho bệnh nhân. III. Của Ăn Đàng. Cùng với việc xức dầu, Hội Thánh trao cho bệnh nhân Mình Thánh Chúa như của ăn đàng. Thông hiệp với Mình Máu Chúa Kitô trong giây phút đó có ý nghĩa và tầm quan trọng đặc biệt, vì Mình Máu Chúa là sự sống và sức mạnh đặc biệt. Vì Mình Máu Chúa là sự sống và sức mạnh phục sinh, đưa bệnh nhân từ cõi chết đến cõi sống. Nếu ba Bí tích Thánh Tẩy, Thêm Sức và Thánh Thể hợp lại thành "các bí tích dẫn vào Kitô giáo" thì Bí tích Xức Dầu Bệnh nhân, Bí tích Hòa giải và ban Của Ăn Đàng hợp lại thành "các bí tích chuẩn bị về Quê Trời". IV. Thái độ người Kitô hữu trước bệnh tật và đau khổ. Nếu biết đón nhận trong lòng mến, bệnh tật có thể làm cho ta nên giống Chúa Kitô. Khi thánh Phaolô than phiền về bệnh tật của ngài, Chúa đã nói: "Sức mạnh của Thầy được biểu lộ trọn vẹn trong sự yếu đuối của con" (2CR 12,9). Chúng ta cố gắng chống trả mọi bệnh tật, nhưng khi phải đón nhận, hãy cố gắng đón nhận bằng lòng mến như thánh Phaolô diễn tả: "Tôi vui mừng và tự hào vì những yếu đuối của tôi, để sức mạnh của Chúa Kitô mãi trong xác tôi" (2Cr 12,9). Bệnh tật có thể là sức mạnh Chúa ban, nhờ đó ta trải rộng tình thương cho người khác và giúp họ đạt đến Quê Trời. Vì thế thánh Phaolô nói: "Tôi vui mừng được chịu đau khổ vì anh em. Những gian nan thử thánh Chúa Kitô còn phải chịu, tôi xin mang lấy vào thân cho đủ mức, vì lợi ích cho Thân Thể Người là Hội Thánh" (C1 1,24).   Bài 35 BÍ TÍCH TRYỀN CHỨC THÁNH (x. SGLC từ 1536 đến 1600) "Đức Giêsu lên núi và gọi lại với Người những kẻ mà Người muốn chọn. Và các ông đến với Người. Người thành lập nhóm Mười Hai, để các ông ở với Người, và để Người sai đi rao giảng với quyền được trừ quỷ". (Mc 3, 13-15; x. 6, 6-13) I. Nguồn gốc Bí tích Truyền Chức Thánh. Được chọn và đặt làm "một vương quốc tư tế, một dân thánh" (Xh 19,6), dân Israel theo lệnh Chúa, dành riêng chi tộc Lê-vi để lo việc phụng vụ. Các tư tế của dân Chúa được đặt lên bằng một nghi thức đặc biệt, để "làm đại diện cho loài người trong mối tương quan với Thiên Chúa, để dâng lễ phẩm cũng như tế vật đền tội" (Dt 5,1). Tuy nhiên, hàng tư tế của Giao ước cũ gồm các tư tế theo phẩm trật Aharon, các thầy Lê-vi (x. Ds 1, 48-53) và hàng kỳ mục (x. Ds 11, 24-25), vốn bất toàn và chỉ là hình ảnh báo trước chức tư tế thánh trong Giao ước mới, do Chúa Kitô thiết lập. Lễ tế trong Cựu ước không thể xóa được tội, để đem lại ơn cứu độ, mà chỉ có lễ tế hy sinh của Chúa Kitô mới thực hiện được mà thôi. Trong các môn đệ đi theo, Đức Giêsu đã chọn Nhóm Mười Hai "để các ông ở với Người, và để Người sai đi rao giảng" (Mc 3,14). Chúa đã trao quyền cử hành Thánh Thể cho các ông trong Bữa Tiệc Ly (x. Lc 22,19), ban quyền tha tội khi từ cõi chết sống lại (x.Ga 20,23), và dạy các ông làm Phép Rửa cho muôn dân, trước khi lên trời (x. Mt 28,19). Sau đó, các Tông đồ đặt tay ban Thánh Thần cho những người được chọn kế vị các ngài. Và chính các giám mục là những người kế vị các Tông đồ liên tục qua các thời đại, với đầy đủ quyền bính (x. 2Tm 1,6; T1 1,5). II. Chức tư tế chung và chức tư tế thừa tác. Chức tư tế chung Chúa Kitô là Đấng Trung gian duy nhất giữa Thiên Chúa và loài người (x. 1Tm 2,5) được Thiên Chúa đặt làm Thượng tế đến muôn đời, vì Người đã "làm cho họ thành một vương quốc, thành những tư tế, để phụng thờ Thiên Chúa" (Kh 5,10; x. 1,6). "Thực vậy, những người đã lãnh nhận Phép Rửa, nhờ sự tái sinh và xức dầu của Thánh Thần, được thánh hiến để trở thành chỗ ở thiêng liêng, và nhận chức tư tế thánh" (GH 10). Đây là chức tư tế chung mà tất cả các Kitô hữu tham dự. Cộng đoàn Hội Thánh thi hành chức tư tế chung bằng việc tham dự vào các Bí tích, và làm chứng cho đức tin (x. GH 11-12). Chức tư tế thừa tác Nhưng ngay giữa cộng đoàn dân Chúa được Bí tích Thánh Tẩy thánh hiến, để lãnh nhận chức tư tế chung, Thiên Chúa còn tuyển chọn một số người lãnh nhận chức tư tế thừa tác, được thánh hiến nhờ một bí tích riêng là Bí tích Truyền Chức Thánh. "Chức tư tế chung của các tín hữu và chức tư tế thừa tác hay phẩm trật, tuy khác nhau không chỉ về cấp bậc mà còn về yếu tính, song cả hai bổ túc cho nhau. Thực vậy, cả hai đều tham dự vào chức tư tế duy nhất của Chúa Kitô theo cách thức riêng của mình" (GH 10). Chức tư tế thừa tác nhằm phục vụ cộng đoàn dân Chúa, để các tín hữu (có chức tư tế chung) phát huy ân sủng của Bí tích Thánh Tẩy. Chúa Kitô là Đầu của Hội Thánh vẫn luôn luôn hiện diện và hành động qua con người và thừa tác vụ của các Linh mục. Nhờ Bí tích truyền chức Thánh, linh mục hành động nhân danh Chúa Kitô là Đầu. Cho nên trong các cử hành Phụng vụ, Chúa Kitô luôn có mặt và trở thành hữu hình giữa cộng đoàn tín hữu, qua các thừa tác viên và thừa tác vụ của họ. Sự hiện diện của Chúa Kitô trong con người thừa tác viên khi cử hành Phụng Vụ, luôn bảo đảm đem lại kết quả thiêng liêng của các Bí tích, chứ không lệ thuộc vào tư cách thánh thiện hay bất xứng của thừa tác viên. Đàng khác, chức tư tế này mang tính thừa tác, nghĩa là để phục vụ. Vì quyền hành chức thánh là quyền của chính Chúa Kitô, nên sử dụng quyền hành này cũng phải theo cách và rập khuôn mẫu của Chúa Kitô, Đấng "đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người" (Mc 10,45). Sau cùng, chức tư tế thừa tác không những đại diện cho Chúa Kitô thủ lãnh, nhưng còn hành động nhân danh toàn thể Hội Thánh, khi dâng lời cầu nguyện của toàn thể dân thánh, và nhất là khi dâng Thánh lễ. III. Ba cấp bậc trong Bí tích Truyền Chức Thánh. Ngay từ đầu, thừa tác vụ thánh Hội Thánh do Chúa Kitô thiết lập gồm ba bậc: Giám mục, Linh mục và Phó tế. Bậc Phó tế là để giúp đỡ các tư tế là Giám mục và Linh mục. Tuy nhiên, cả ba bậc đều được ban qua Bí tích Truyền Chức Thánh. 1. Các Giám mục: Các Giám mục là những thừa tác viên ở địa vị thứ nhất trong ba bậc của thừa tác vụ thánh. Các Giám mục kế vị các Tông đồ, lãnh nhận chức tư tế tối cao (Thượng tế) và sung mãn, gia nhập giám mục đoàn, và trở thành thủ lãnh hữu hình của Hội Thánh đã được ủy thác. Được hiến thánh qua việc đặt tay cùng với lời kinh dành riêng, các Giám mục lãnh nhận ấn tín Chúa Thánh Thần, thay mặt Chúa Kitô với trách nhiệm thánh hóa, giảng dạy và cai quản "Nhờ Thánh Thần mà các Ngài đã lãnh nhận, các Giám mục trở thành thầy dậy đức tin, thượng tế, chủ chăn thực thụ và chính thức" (GM 2). Vì cũng là đại diện Chúa Kitô, và cùng kế vị các Tông Đồ, các Giám mục liên kết với nhau thành Giám Mục đoàn, dưới quyền lãnh đạo của Giám mục Rôma. Tính cách liên đới trong Giám mục đoàn được biểu lộ qua việc truyền chức thánh cho một Giám mục, và qua việc họp Công đồng chung do Đức Giáo Hoàng triệu tập. Vì thế, mỗi Giám mục ở giáo hội địa phương đều chia sẻ trách nhiệm tông đồ và sứ mạng của toàn thể Hội Thánh. "Với tư cách là phần tử của Giám mục đoàn, và là người kế vị hợp pháp của tông đồ, mỗi Giám mục, do sự thành lập và giới lệnh của Chúa Kitô, có bổn phận ân cần săn sóc đến toàn thể Hội Thánh" (GH 23). 2. Các Linh Mục Bậc thứ hai trong chức tư tế thánh là các Linh Mục. Qua Bí tích Truyền Chức Thánh, các Linh Mục hiệp nhất với chức tư tế sung mãn của Giám mục, và trở thành cộng tác viên trực tiếp của hàng Giám mục, trong việc chu toàn sứ mạng tông đồ do Chúa Kitô ủy thác. "Nhờ Bí tích Truyền Chức Thánh, Linh mục được thánh hiến theo hình ảnh Chúa Kitô, Thầy cả Thượng phẩm vĩnh viễn (x. Dt 5,1-10; 7,24; 9, 11-28), để rao giảng Phúc Âm, chăn dắt tín hữu và cử hành việc phụng tự Thiên Chúa, với tư cách tư tế đích thực của Tân ước" (GH 28). Được tham dự vào chức tư tế tối cao của Giám mục, các Linh mục chỉ có thể thi hành thừa tác vụ của mình trong sự phục tùng Đức Giám Mục, và hiệp thông với ngài. Các Linh mục cũng làm thành Linh Mục đoàn, dưới quyền lãnh đạo của Đức Giám mục giáo phận. Do đó các linh mục phải tôn kính, yêu mến và vâng lời Đức Giám mục như những người cộng tác viên, những người con, những anh em và bạn hữu của Giám mục. Ngoài ra, giữa các Linh mục với nhau cần có sự hiệp nhất yêu thương, và giúp đỡ nhau bằng tình huynh đệ do bí tích. 3. Các Phó tế Các Phó tế là bậc sau cùng của Bí tích Truyền Chức Thánh. Các Phó tế không lãnh nhận chức tư tế thừa tác, nhưng họ cộng tác với các Giám mục và Linh mục trong việc phục vụ cộng đoàn dân Chúa. Dự phần cách đặc biệt vào sứ mệnh và ân sủng của Chúa Kitô Thượng tế, và với ấn tín của Bí tích Truyền Chức Thánh, các Phó tế trở nên giống hình ảnh Chúa Kitô, Tôi tớ phục vụ mọi người. (x. Mc 10-45). "Các Phó tế được cử hành trọng thể Phép Rửa, giữ và trao Mình Thánh Chúa, nhân danh Giáo Hội, chứng kiến và chúc lành hôn phối, mang của ăn đàng cho kẻ hấp hối, đọc Thánh kinh cho giáo hữu, giáo huấn và khuyên nhủ dân chúng, chủ tọa việc phụng tự và kinh nguyện của tín hữu, cử hành các Á Bí tích, chủ tọa lễ nghi tang chế và an táng" (GH 29) và hiến thân cho công việc Bác Ái.   IV. Giáo dân đối với các Giám mục và Linh mục Cầu nguyện: Trách nhiệm của các vị chủ chăn trong Hội Thánh rất nặng nề. Các ngài cần được cầu nguyện và nâng đỡ để chu toàn công việc chăn dắt đoàn chiên mà Thiên Chúa đã giao phó. "Không phải vì miễn cưỡng, nhưng hoàn toàn tự nguyện. Không phải vì ham hố lợi lộc thấp hèn, nhưng vì lòng nhiệt thành tận tụy, nêu gương sáng cho đoàn chiên" (x. 1Pr 5, 2-3). "Xin anh em cầu nguyện cho chúng tôi. Chúng tôi tin rằng chúng tôi có lương tâm ngay lành, muốn ăn ở tốt trong mọi hoàn cảnh" (Dt 10,18; x. Ep 6, 19-20). Giáo dân đừng quên dùng lời cầu nguyện phó dâng cho Thiên Chúa các vị lãnh đạo của mình, để các ngài hoan hỉ mà không than van thi hành nhiệm vụ chăm sóc linh hồn chúng ta, nhiệm vụ mà các ngài sẽ phải trả lẽ (x. Dt 13,17) (GH 37). Tôn kính, yêu mến và vâng lời: Các chủ chăn là những người đại diện Chúa Kitô, nên phải đối xử với các ngài bằng niềm tin, nghĩa là tôn kính, yêu mến và vâng lời, để Thiên Chúa được tôn vinh và các chủ chăn được vui vẻ chu toàn nhiệm vụ. "Anh em hãy vâng lời những người lãnh đạo anh em và hãy phục tùng họ, vì họ chăm sóc linh hồn anh em như những người sẽ phải trả lẽ với Thiên Chúa. Như thế, họ sẽ vui vẻ thi hành phận sự của mình mà không than thở, bởi vì điều đó chẳng ích gì cho anh em" (Dt 13,17). "Thưa anh em, chúng tôi xin anh em hãy quí trọng những ai đang vất vả vì anh em. Hãy lấy tình bác ái mà hết lòng tôn kính những người ấy" (1Tx 5, 12-13). Cộng tác: "Các giáo dân cũng có thể cảm thấy mình được kêu gọi, hoặc thực sự được kêu gọi để cộng tác với các chủ chăn, phục vụ cho cộng đoàn Hội Thánh, giúp cho sự tăng trưởng và sinh hoạt của cộng đoàn, bằng cách thi hành những tác vụ rất khác nhau, tùy theo ân sủng và những đặc sủng mà Chúa sẽ ban cho họ" (LBTM 11). "Hy vọng rằng sự liên lạc mật thiết giữa giáo dân chủ chăn sẽ đem lại rất nhiều lợi ích cho Giáo Hội: thực vậy, nhờ sự liên lạc đó, giáo dân ý thức trách nhiệm mình một cách vững vàng hơn; lòng hăng say của họ được phát triển, và họ góp sức dễ dàng hơn vào công việc của các chủ chăn" (GH 37). Bài 36 BÍ TÍCH HÔN PHỐI (x. SGLC từ 1601 đến 1666) "Đấng Tạo Hóa đã thiết lập và ban những định luật riêng cho đời sống chung thân mật và cho cộng đoàn tình yêu vợ chồng. Đời sống chung này được gầy dựng do giao ước hôn nhân, nghĩa là sự ưng thuận cá nhân không thể rút lại... Chính Thiên Chúa là Đấng tác tạo hôn nhân, phú bẩm những lợi ích và mục tiêu khác nhau" (MV 48). I. Hôn nhân trong chương trình của Thiên Chúa Hôn nhân là sinh hoạt quen thuộc của con người ở mọi nơi và mọi thời. Tuy nhiên, cách nhìn về hôn nhân lại có thể rất khác nhau. Đối với người tín hữu Kitô, hôn nhân không chỉ là chuyện của hai người, nhưng trước hết và trên hết là của chính Thiên Chúa, vì chính Ngài tác tạo hôn nhân (x. MV 48). Chính vì thế, ơn gọi hôn nhân đã được khắc sâu vào bản tính nhân loại, và ẩn bên trong những khác biệt về văn hóa, xã hội, vẫn luôn luôn có những đặc tính chung và thiết yếu cho cuộc sống hôn nhân. Đặc tính ấy là tình yêu bền vững và sự kết hợp bất khả phân ly "người đàn ông lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai thành một xương một thịt" (St 2,24); đồng thời mở ra cho sự sống qua việc sinh sản con cái "Hãy sinh sôi nẩy nở thật nhiều cho đầy mặt đất và thống trị mặt đất" (St 1,28). Tuy nhiên, dọc dài lịch sử nhân loại và ngay trong cuộc sống hôm nay, ta lại thường xuyên chứng kiến quá nhiều đổ vỡ của cuộc sống hôn nhân gia đình. Theo cách nhìn của Kinh Thánh, sự đổ vỡ ấy không phát xuất từ bản tính nhân loại, hay từ bản chất của hôn nhân, nhưng từ tội lỗi. Khi con người bẻ gãy mối quan hệ với Thiên Chúa, thì mối quan hệ nam nữ cũng bị tổn thương. Không còn phải là quan hệ yêu thương thực sự, nhưng là quan hệ thống trị và thèm khát (St 3,16). Ơn gọi mở ra với sự sống cũng trở thành nặng nề vì phải đau đớn khi sinh nở và vất vả trong lao công (St 3, 16-19). Cho dẫu con người xa lìa Thiên Chúa, Thiên Chúa vẫn không bỏ rơi con người. Ngài tiếp tục nâng đỡ và giáo dục ý thức luân lý liên quan đến hôn nhân và gia đình. Cho dẫu còn bất toàn và phải nhượng bộ "sự cứng lòng của con người" (Mt 19,8), luật Môsê đã giúp bảo vệ người phụ nữ đối với sự thống trị độc đoán của người chồng, cũng như giúp đỡ vợ chồng thoát khỏi xu hướng ích kỷ, đi tìm khoái lạc riêng mình, đồng thời biết mở ra cho một lối sống tự hiến, cho đi. Khi các ngôn sứ đến, các ngài giúp dân Chúa đào sâu ý nghĩa về tính chất duy nhất và bất khả phân ly của hôn nhân (x.Hs 1-3; Is 54, 62). Các tác phẩm trong Cựu ước như sách Ruth, Tôbia, Diệu ca là những tác phẩm mang tính giáo dục cuộc sống hôn nhân rất cao. Tuy nhiên chỉ với Đức Giêsu, hôn nhân mới tìm lại được phẩm giá đích thực và trọn vẹn của mình. Tin Mừng ghi nhận Đức Giêsu đã thực hiện dấu lạ đầu tiên trong khung cảnh một tiệc cưới (x.Ga 2, 1-11). Như thế, Ngài xác quyết tình thiện hảo của hôn nhân, và hôn nhân trở thành dấu chỉ hiệu nghiệm cho sự hiện diện của Chúa Kitô. Đồng thời trong giáo huấn của Ngài, Đức Giêsu xác lập lại tính bất khả phân ly của sự kết hợp vợ chồng, vì "Điều gì Thiên Chúa đã liên kết, con người không được phân ly" (Mt 19,6). Đòi hỏi này có thể vượt quá sức tự nhiên của con người. Nhưng khi tái lập ý định nguyên thủy của Thiên Chúa về hôn nhân, Đức Giêsu cùng nâng đỡ đôi vợ chồng bằng ân sủng và sức mạnh của Ngài, ân sủng tuôn chảy từ thập giá cứu độ (x. Mt 19, 11). Chính vì thế, Thánh Phaolô đã trình bày giao ước hôn nhân trong mối liên kết với giao ước giữa Chúa Kitô và Hội Thánh (x. Ep 5, 25-26). Hôn nhân trở thành Bí tích của giao ước mới, nghĩa là hôn nhân vừa diễn tả giao ước giữa Chúa Kitô và Hội Thánh, vừa chuyển thông ân sủng để đôi vợ chồng sống ý nghĩa giao ước đó. II. Cử hành Hôn phối và sự ưng thuận tự do Chính vì hôn nhân là Bí tích của giao ước giữa Chúa Kitô và Hội Thánh, nên hôn lễ của đôi bạn công giáo thường được cử hành trong Thánh lễ, vì Thánh lễ là sự tưởng niệm Giao ước Mới. Nhờ đó, đôi hôn phối kết hiệp sự hiến dâng cho nhau với hiến tế của Chúa Kitô, và vì cùng thông phần với Mình Máu Chúa Kitô, họ trở nên "một thân mình" trong Chúa Kitô (x. 1Cr 1o, 17). Vì bí tích là hành động thánh hóa, nên để cử hành Bí tích Hôn phối cách xứng đáng và có hiệu quả (Tông Huấn GD 67), đôi hôn phối phải chuẩn bị trước bằng cách lãnh nhận Bí tích Hòa giải. Trong Bí tích Hôn phối, chính đôi bạn làm nên Bí tích khi họ bày tỏ sự ưng thuận này tự do trước Hội Thánh, nghĩa là họ không bị ép buộc bất cứ vì lý do gì, cũng không bị ngăn cản bởi luật tự nhiên hay luật Hội Thánh. Việc trao đổi sự ưng thuận này là yếu tố tối cần thiết và làm nên hôn phối. Sẽ không có hôn phối nếu không có sự ưng thuận này (x. Gl 1057). Hôn phối không thành sự nếu thiếu tự do. Linh mục hay Phó tế chủ sự nghi thức sẽ đón nhận lời trao đổi ưng thuận của đôi hôn phối, và chúc lành cho họ nhân danh Hội Thánh. Sự hiện diện của thừa tác viên Hội Thánh nói lên ý nghĩa kết hôn là một hành động mang ý nghĩa Hội Thánh. Đồng thời, vì Bí tích Hôn phối là một hành vi Phụng Vụ, và hôn nhân là một lối sống trong Hội Thánh, nên Hội Thánh yêu cầu đôi bạn cử hành hôn phối theo nghi thức của Hội Thánh. Để cho sự ưng thuận của đôi hôn phối thực sự là hành vi tự do và có trách nhiệm, để cho giao ước hôn nhân có được nền tảng vững chắc và bền vững về mặt nhân bản cũng như tôn giáo, việc chuẩn bị cho các đôi tân hôn là công việc rất quan trọng. Đây là bổn phận không những của các chủ chăn, nhưng còn của các bậc cha mẹ và mọi thành phần dân Chúa. III. Hiệu quả của Bí tích Hôn phối. Sự ưng thuận mà đôi bạn trao cho nhau được chính Thiên Chúa đóng ấn. Như vậy, giao ước hôn nhân hội nhập giao ước giữa Thiên Chúa với con người, và "tình yêu vợ chồng đích thực được kết nhập trong tình yêu Thiên Chúa" (MV 48). Vì thế, sợi giây hôn phối liên kết hai người mãi mãi không bị cắt đứt, và Hội Thánh không có quyền đi ngược lại thánh ý Thiên Chúa. "Chúa Kitô ban dồi dào ân phúc cho tình yêu vợ chồng... Như xưa kia Thiên Chúa đến gặp gỡ dân Ngài bằng một giao ước yêu thương và trung thành; ngày nay Đấng Cứu Thế, bạn Trăm Năm của Hội Thánh, cũng đến với đôi vợ chồng qua Bí tích Hôn phối. Người còn ở lại với họ để hai vợ chồng mãi mãi trung thành yêu thương nhau bằng sự tự hiến cho nhau, như Người đã yêu thương Hội Thánh và đã nộp mình vì Hội Thánh" (MV 48). Như thế, ân sủng được ban trong Bí tích Hôn phối nhằm kiện toàn tình yêu vợ chồng, và kiên cường sự hiệp nhất bất khả phân ly. IV. Ích lợi và đòi hỏi. 1. Đơn nhất và bất khả phân ly "Họ không còn là hai, nhưng chỉ là một thân mình" (Mt 19,6). Tình yêu hôn nhân liên kết hai người nam nữ thành một, không chỉ trong thân xác, nhưng trong con người toàn diện: thân xác, tình cảm, tinh thần và ý chí. vì thế, sự kết hợp giữa hai người phải mang tính đơn nhất và bất khả phân ly, nghĩa là một vợ một chồng và gắn bó với nhau đến trọn đời. Đòi hỏi này phát sinh từ chính bản chất của tình yêu, nhưng được kiên cường, thanh tẩy và kiện toàn nhờ hiệp thông với Đức Giêsu Kitô. Đòi hỏi đó cũng diễn tả sự bình đẳng nhân vị giữa người nam và người nữ. Vì thế, chế độ đa thê đi ngược lại với tình yêu hôn nhân đích thực. 2. Trung tín Ở tự bản chất, hôn nhân gọi mời trung tín. Hơn thế nữa, ích lợi của con cái cũng đòi hỏi đôi vợ chồng phải trung tín với nhau. Nhưng đối với người tín hữu, lý do sâu xa nhất của đòi hỏi này là sự trung tín của chính Thiên Chúa trong giao ước với con người và của Chúa Kitô với Hội Thánh. Nhờ Bí tích Hôn phối, đôi vợ chồng khám phá ý nghĩa sâu xa của đòi hỏi trung thành, đồng thời diễn tả ra bên ngoài và làm chứng bằng chính cuộc đời mình. Hội Thánh biết rằng sống được tình yêu trung tín như thế không phải là điều dễ dàng, nhất là trong thời đại hôm nay. Tuy nhiên với ơn Chúa và sự nâng đỡ của cộng đoàn, đôi vợ chồng có thể chia sẻ và làm chứng cho tình yêu trung tín của chính Thiên Chúa và Hội Thánh biết ơn các đôi vợ chồng. Trong một vài trường hợp, khi cuộc sống chung không thể tiếp tục được vì nhiều lý do, Hội Thánh có thể cho phép ly thân. Hai người vẫn là vợ chồng trước mặt Chúa, và hy vọng nhờ tinh thần hòa giải, một ngày nào đó, họ có thể tiếp tục cuộc sống chung như trước. Đối với một số đôi hôn phối đã li dị và kết hôn một lần nữa theo luật dân sự, Hội Thánh không nhìn nhận cuộc hôn nhân mới là thành sự, và vì thế, họ không được Rước Lễ, không được thi hành một vài trách nhiệm trong Hội Thánh, và chỉ được lãnh nhận Bí tích Hòa giải khi ăn năn sám hối và cương quyết sống tiết dục hoàn toàn. Đồng thời Hội Thánh mong ước các Linh mục và cộng đoàn tín hữu quan tâm chăm sóc những anh chị em sống trong hoàn cảnh khó khăn đó, để họ không mang mặc cảm bị tách rời khỏi Hội Thánh, nhưng tiếp tục tham dự Thánh Lễ, lắng nghe Lời Chúa, kiên trì cầu nguyện và thực thi việc bác ái (x. Tông huấn GĐ 84). 3. Trách nhiệm sinh sản "Tự bản tính, hôn nhân và tình yêu vợ chồng hướng tới việc sinh sản và giáo dục con cái. Con cái vừa là ân huệ cao quí nhất của hôn nhân, vừa góp phần rất lớn vào hạnh phúc của cha mẹ" (MV 58). Việc sinh sản và giáo dục ở đây không chỉ nhằm đến đời sống thể lý nhưng cả đời sống luân lý, tinh thần và tâm linh của con cái. Vì thế, cha mẹ lãnh nhận trách nhiệm giáo dục rất lớn. Đối với những đôi vợ chồng hiếm muộn, cuộc sống hôn nhân của họ vẫn có thể mang đầy ý nghĩa. Thay cho hoa trái là con cái, hoa trái trong cuộc đời họ là lòng bác ái, sự phục vụ và chính hi sinh của họ. V. Hội thánh tại gia Thiên Chúa đã làm người trong khung cảnh một gia đình, và Hội Thánh chẳng là gì khác hơn "gia đình của Chúa". Trong thời đại hôm nay, gia đình tín hữu chiếm vị trí quan trọng đặc biệt, là trung tâm tỏa sáng đức tin. Vì thế, Hội Thánh gọi gia đình là "Giáo Hội tại gia". Chính trong khung cảnh gia đình, người tín hữu sống và thể hiện những chức năng chính yếu của Hội Thánh: tư tế, ngôn sứ và vương đế. Gia đình là nơi cha mẹ làm chứng đức tin cho con cái, và giúp con cái khám phá ơn gọi Chúa dành cho nó. Gia đình là nơi các thành viên kết hợp với nhau trong kinh nguyện, trong sự bỏ mình và đời sống thánh thiện. Gia đình cũng là nơi chúng ta học tập những đức tính nhân bản và Kitô giáo, nhất là tinh thần phục vụ, yêu thương, quảng đại và tha thứ. Đối với những anh chị em không kết hôn và phải sống cô độc vì nhiều hoàn cảnh khác nhau, lời của Đứa Gioan Phaolô II thật đáng ghi nhớ: "Trong thế giới này, không ai là không có gia đình. Hội Thánh là ngôi nhà và gia đình của tất cả mọi người, nhất là những ai phải gồng gánh nặng nề" (Tông huấn CĐ 85). Những anh chị em ấy gần gũi với Trái Tim Chúa cách riêng, và các mục tử cần dành cho họ sự chăm sóc đặc biệt. VI. Sống ơn gọi hôn nhân Trong truyền thống lâu dài của mình, Hội Thánh Công Giáo luôn chú tâm đến cuộc sống hôn nhân gia đình. Ngày nay, cuộc sống hôn nhân đang bị đe dọa trầm trọng, và nhiều gia đình đã hoặc đang có nguy cơ đổ vỡ. chính vì thế, việc chuẩn bị cho các bạn trẻ bước vào đời sống hôn nhân trở nên cần thiết hơn bao giờ. Ở một số giáo xứ, các Linh mục đã tổ chức những khóa chuẩn bị hôn nhân, giúp các bạn trẻ ý thức về nhiều mặt trong cuộc sống gia đình: tâm lý, thiêng liêng, phái tính, kinh tế... Những công việc đó thật đáng khuyến khích và cần nhân lên nhiều hơn nữa. Chúa Kitô ban những ân sủng cần thiết cho đôi vợ chồng trong cuộc sống hôn nhân, nhưng Ngài không cưỡng ép. Chính đôi vợ chồng phải biết đón nhận ân sủng đó, qua tình thương chăm sóc cho nhau, qua kinh nguyện và việc lãnh nhận các Bí tích nhất là Bí tích Hòa giải và Bí tích Thánh Thể. Bí tích Hòa giải giúp họ vượt qua những lỗi lầm trong quan hệ vợ chồng và trong trách nhiệm làm cha mẹ. Bí tích Thánh Thể giúp họ đi sâu hơn vào mối hiệp thông với Chúa, nhờ đó sống mối hiệp thông trong gia đình tốt đẹp hơn. "Có một bậc sống rất giá trị để thể hiện nhiệm vụ ngôn sứ của người giáo dân, đó là đời sống hôn nhân và gia đình. Gia đình là môi trường hoạt động và trường học tuyệt diệu cho việc tông đồ giáo dân" (GH 35). Chính trong gia đình, con cái lãnh nhận những bài học đầu tiên về đức tin, qua gương sáng của cha mẹ. Các bậc cha mẹ cần ý thức điều này, và như thế, bằng chính bổn phận gia đình, họ góp phần vào sứ mạng chung của Hội Thánh. Bài 37 CÁC CỬ HÀNH PHỤNG VỤ KHÁC (x. SGLC từ 1667 đến 1690) "Hội Thánh còn thiết lập những phụ tích. Đó là những dấu chỉ thánh, vì một phần nào phỏng theo những Bí tích; nhờ đó biểu trưng những hiệu quả, nhất là những hiệu quả thiêng liêng - và thông ban hiệu quả đó nhờ sự bầu cử của Hội Thánh" (PV 60). I. Các Phụ Tích (Á Bí Tích) 1. Đặc tính: Phụ tích được Hội Thánh thiết lập phỏng theo các bí tích, nhằm mục đích thánh hóa một số thừa tác vụ và bậc sống trong Hội Thánh, cũng như một vài hoàn cảnh và đồ vật có ích cho con người. Việc cử hành phụ tích thường gồm một lời cầu nguyện và một dấu chỉ đặc trưng như: đặt tay, làm dấu Thánh giá, rẩy Nước Thánh (x.SGLC 1668). Các phụ tích không chuyển thông ân sủng giống như các bí tích (hiệu quả do sự) nhưng chuẩn bị cho ta đón nhận các bí tích và cộng tác với ân sủng Thiên Chúa. Nhờ đó "hầu hết mọi biến cố trong đời sống sẽ được thánh hóa... và hầu như không có việc sử dụng của cải vật chất một cách chính đáng nào mà lại không thể đưa tới mục đích thánh hóa con người và ca khen Thiên Chúa" (PV 61). 2. Những hình thức: Trước hết phải kể đến việc chúc phúc (cho người, thực phẩm, đồ vật, nơi chốn). Trong Chúa Kitô, mọi Kitô hữu được Thiên Chúa chúc phúc (Ep 1,3). Vì thế, Hội Thánh xin Thiên Chúa chúc phúc bằng cách khẩn cầu danh thánh Chúa Giêsu. Phải quan tâm đặc biệt đến một số phụ tích nhằm thánh hiến một con người hoặc một nơi chốn, đồ vật nào đó. Thánh hiến con người như nghi thức tuyên khấn, hoặc ban các thừa tác vụ nhỏ như đọc sách, giúp lễ. Thánh hiến đồ vật và nơi chốn, như nhà thờ, bàn thờ, dầu thánh, lễ phục.... Việc trừ quỷ cũng là một phụ tích. Trong cử hành Bí tích Thánh Tẩy, đã có nghi thức trừ quỷ, nhưng nghi thức trọng thể chỉ được cử hành do một linh mục với sự cho phép của Giám mục. 3. Lòng đạo bình dân: Bên cạnh phụng vụ bí tích và các phụ tích, còn có những hình thức diễn tả lòng đạo đức trong sinh hoạt của dân Chúa, như: hành hương, rước kiệu, đường Thánh giá, lần chuỗi, tôn kính các thánh tích. Những hình thức này không thay thế nhưng nối dài đời sống phụng vụ của Hội Thánh. Các mục tử cần có sự sáng suốt để nâng đỡ lòng đạo bình dân nơi các tín hữu; đồng thời nếu cần, giúp cho cảm thức tôn giáo đó đi đúng hướng tức là đi sâu vào sự hiểu biết và gắn bó với mầu nhiệm Chúa Kitô. Vì thế phải chiếu theo các mùa phụng vụ để xếp đặt các việc ấy cho hòa hợp với phụng vụ Thánh Thể. II. Nghi thức an táng Kitô giáo Trong ánh sáng mầu nhiệm Vượt Qua của Chúa Kitô, ý nghĩa của sự chết được bày tỏ. Đối với người Kitô hữu, chết là "lìa bỏ thân xác để được ở bên Chúa" (2Cr 5,8); ngày chết là ngày hoàn thành ơn tái sinh đã bắt đầu trong Bí tích Thánh tẩy, là ngày dự Tiệc Nước Trời đã bắt đầu trong Bí tích Thánh Thể. Hội Thánh là một người mẹ đã cưu mang con trong suốt hành trình trần thế, cũng đi theo người con ấy cho tới điểm cuối của cuộc hành trình, hiến dâng người con đó cho Chúa, trao gởi người con đó cho lòng đất, với niềm hy vọng sẽ được phục sinh vinh hiển (x. 1Cr 15, 42-44). Vì thế, nghi thức an táng của Kitô giáo tràn ngập niềm tín thác và hy vọng. Nghi thức an táng là cử hành phụng vụ chính thức, nhằm diễn tả sự hiệp thông của cộng đoàn với người đã khuất, đồng thời công bố Tin Mừng về đời sống vĩnh cửu và ơn phục sinh trong Chúa Kitô. PHẦN 3 LUÂN LÝ KITÔ GIÁO Trong phần 1, chúng ta tuyên xưng đức tin vào Chúa Ba Ngôi và những hồng ân quí giá Người ban cho nhân loại. Hồng ân cao cả nhất là Thiên Chúa đã trao ban chính Người Con Một yêu dấu cho ta, và trong Mầu Nhiệm Vượt Qua, Người Con ấy đã hoàn thành công trình cứu chuộc loài người. Cử hành Phụng vụ và Bí tích chính là cử hành Mầu Nhiệm Vượt Qua của Chúa Kitô, để sinh ơn ích cho tất cả mọi người (Phần 2). Đã đón nhận Chúa Kitô thì phải sống làm sao cho "xứng đáng với Tin Mừng Chúa Kitô" (Dl 1,27), phải kết hợp với Ngài và sống theo mẫu mực của Ngài (x. Ga 13, 12-16). Đức tin mà ta tuyên xưng và cử hành, phải dẫn đến một lối sống cụ thể, phù hợp và xứng đáng với danh nghĩa Kitô hữu. Chính vì thế, sau phần tuyên xưng đức tin và cử hành mầu nhiệm Kitô giáo, cần phải tìm hiểu về đời sống luân lý. Trong phần này, chúng ta sẽ tìm hiểu những nền tảng của đời sống luân lý như: tự do, lương tâm, nhân đức, tội lỗi... Và sau đó, tập trung vào Thập Giới, như những chỉ dẫn cụ thể cho cuộc sống hằng ngày. KINH MƯỜI ĐIỀU RĂN Đạo Đức Chúa Trời có Mười Điều răn: Thứ nhất: Thờ phượng một Đức Chúa Trời và kính mến Người trên hết mọi sự. Thứ Hai: Chớ kêu tên Đức Chúa Trời vô cớ. Thứ Ba: Giữ ngày Chúa Nhật. Thứ Bốn: Thảo kính cha mẹ. Thứ Năm: Chớ giết người. Thứ Sáu: Chớ làm sự dâm dục. Thứ Bảy: Chớ lấy của người. Thứ Tám: Chớ làm chứng dối. Thứ Chín: Chớ muốn vợ chồng người. Thứ Mười: Chớ tham của người. Mười Điều Răn ấy tóm lại hai điều này là trước hết kính yêu một Đức Chúa Trời trên hết mọi sự, sau lại yêu người như yêu mình ta vậy. Amen. Bài 38 CON NGƯỜI LÀ HÌNH ẢNHC ỦA THIÊN CHÚA (x. SGLC từ 1701 đến 1724) "Hỡi người Kitô Hữu hãy nhận biết phẩm giá của mình vì bạn được thông phần bản tính Thiên Chúa" (Thanh Lêô Cả, Giáo hoàng). "Thực vậy, mầu nhiệm về con người chỉ thực sự sáng tỏ trong Mầu Nhiệm Ngôi Lời Nhập thể... Bởi vì Chúa Kitô đã bày tỏ cho con người biết bản chất đích thực của chính mình và khám phá ra ơn gọi cao cả của mình" (MV 22) I. Con người có phẩm giá cao cả. Kinh Tin Kính tuyên xưng vẻ cao cả của muôn hồng ân Thiên Chúa đã trao ban cho con người trong việc sáng tạo, và còn cao cả hơn nữa trong việc cứu độ và thánh hóa con người. Chính Chúa Kitô khi nhập thể làm người, đã mạc khải trọn vẹn cho ta về phẩm giá con người: "Con người có hồn thiêng bất tử là thụ tạo duy nhất trên trái đất được Thiên Chúa dựng nên cho chính họ" (MV 24), và ngay khi thụ thai, con người được dành cho số phận hưởng hạnh phúc vĩnh cửu. Thiên Chúa đã cho con người có phẩm giá là có lý trí để hiểu biết trật tự vạn vật mà Người đã sắp đặt cho, có ý chí để có thể tự mình hướng về sự thiện đích thực, và còn có tự do là "là dấu hiệu đặc sắc nhất về hình ảnh Thiên Chúa nơi họ" (x. MV 17). Nhờ các khả năng đó, con người nhận ra được tiếng nói Thiên Chúa thúc đẩy họ làm lành lánh dữ (MV 16). Tiếng nói này luôn luôn vang lên trong lương tâm họ. Vì thế khi thực thi đời sống luân lý là con người chứng tỏ phẩm giá của mình. Tuy nhiên "ngay từ đầu lịch sử, con người bị quỷ dữ dụ dỗ và họ đã lạm dụng tự do của mình" (MV 13) để làm điều xấu. Dẫu thế con người vẫn còn giữ được lòng ao ước điều thiện, nhưng vì đã bị tổn thương bởi nguyên tội, họ dễ hướng về điều ác và dễ bi sai lầm(x. Mt 13), khiến phẩm giá của họ bị hủy hoại. II. Chúa Kitô phục hồi phẩm giá con người Tội lỗi đã hủy hoại phẩm giá cao cả của con người, nhưng Chúa Kitô đã dùng cuộc khổ nạn và phục sinh của Người giải thoát ta khỏi tội lỗi và làm cho ta đáng được sự sống mới trong Thánh Thần. Người phục hồi những gì mà tội lỗi đã hủy hoại. Nếu ta tin vào Chúa Kitô, ta được trở thành con Thiên Chúa nghĩa là được biến đổi để sống đời sống mới trong Thánh Thần, theo gương Chúa Kitô, để luôn hành động ngay chính và thực hành điều thiện. Nhờ đó đời sống luân lý của ta được triển nở, giúp ta tiến tới đức ái toàn hảo, để đạt được vinh quang và hạnh phúc Nước Trời. III. Con người được mời gọi hưởng hạnh phúc Nước Trời Tâm điểm việc giảng dạy của Đức Giêsu là Nước Trời và các mối phúc thật. Nước Trời lại gắn liền với các mối phúc (x.Mt 5.3.12). Các mối phúc vừa mô tả khuôn mặt Chúa Kitô (nghèo khó, hiền lành, bị bách hại) vừa mô tả đức ái của Người (thương xót, hòa giải). Chúng cũng soi sáng cho ta hiểu đâu là hành động và thái độ tiêu biểu của đời sống Kitô hữu. Chúng nâng đỡ Kitô hữu trong những lúc gian truân và báo trước Thiên Chúa sẽ chúc phúc cũng như ban thưởng xứng đáng cho họ. Các mối phúc còn đáp ứng khát vọng tự nhiên của con người muốn được hạnh phúc. Khát vọng hạnh phúc này cũng bắt nguồn từ chính Thiên Chúa, và chỉ có mình Thiên Chúa mới có thể thỏa mãn được. Tân ước đã dùng nhiều cách để diễn tả hạnh phúc Thiên Chúa hứa ban: được nhìn thấy Thiên Chúa (Mt 5,8), được vào hưởng niềm vui (Mt 25,21,23), được vào nơi an nghỉ của Thiên Chúa (Dt 4, 7, 11), được vào Thiên đàng (Lc 23,43), được thông phần bản tính Thiên Chúa (2Pr 1,4), được sống đời đời (Ga 17,3), được vào trong vinh quang của Chúa Kitô (Rm 8,18). IV. Các mối phúc là tiêu chuẩn để đánh giá và hướng dẫn đời sống. Các mối phúc giúp ta thấy rõ mục đích của cuộc đời và cùng đích tối hậu của mọi hành vi con người, đó là được chung hưởng hạnh phúc với Thiên Chúa. Thiên Chúa đặt con người trước các mối phúc để họ phải chọn lựa và quyết định đời sống luân lý của mình. Họ phải nhận biết ý muốn của Thiên Chúa để thanh tẩy mình khỏi những bản năng xấu, loại bỏ quan niệm sai lầm coi hạnh phúc chỉ tại cốt giàu sang, danh vọng, quyền lực, hoặc chỉ cốt tại những công trình loài người, dẫu rất hữu ích như khoa học kỹ thuật. Các mối phúc là con đường dẫn tới Nước Trời. Chúa Kitô phải từng bước dấn thân vào con đường ấy, nhờ Lời Chúa Kitô và ân sủng Chúa Thánh Thần mà thực hiện những hành vi trong đời thường để sinh hoa kết trái tốt đẹp cho đồng loại và làm vinh danh Thiên Chúa. V. Phẩm giá con người và hạnh phúc vĩnh cửu. Con người có phẩm giá vì được Thiên Chúa yêu thương, được dựng nên giống hình ảnh Người, nghĩa là có lý trí, có ý chí, có tự do để chọn lựa điều thiện và có thể đạt tới hạnh phúc mà mình khát vọng. Nhờ phẩm giá cao cả đó, con người có thể yêu mến Thiên Chúa, yêu thương nhau, và yêu cả vũ trụ vạn vật nữa. Khi con người sống đúng phẩm giá mình, họ chứng tỏ mình đích thực là hình ảnh của Thiên Chúa, và được trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Giêsu Con của Chúa Cha (Rm 8,29), được thông phần bản tính Thiên Chúa và hưởng hạnh phúc vĩnh cửu với Thiên Chúa Ba Ngôi. Ơn gọi nầy liên hệ đến bản thân riêng mỗi người trước hết, nên mỗi người phải ý thức phẩm giá và ơn gọi đó, để tự nguyện đáp trả tình thương của Thiên Chúa. Xưa các nhà hiền triết Á Đông chúng ta trực giác bằng con người "linh hơn vạn vật" và đã dạy mỗi người phải lo sống cho xứng danh làm người (chính danh). Họ cũng trực giác rằng con người sinh ra vốn có tính "thiện" (nhân chi sơ tính bản thiện) thích làm điều thiện và khao khát hạnh phúc. Nhưng trong con người vẫn có thú tính nổi lên khiến con người hung dữ, tham lam... Nay nhờ mặc khải của Chúa Kitô, và nhờ ơn cứu độ của Người, Kitô hữu biết rõ hơn chỉ có hai con đường: con đường của Chúa Kitô "dẫn đến sự sống" và con đường ngược lại "dẫn tới diệt vong" (Mt 7,13). Hơn nữa, Kitô hữu còn được ân sủng của Thánh Thần hướng dẫn, trợ lực; vì thế, mỗi người phải sử dụng tự do của mình để suy nghĩ, chọn lựa, và quyết định đi theo con đường của Chúa Kitô, đường dẫn tới hạnh phúc thật trong Nước Trời. Bài 39 TỰ DO CỦA CON NGƯỜI (x. SGLC từ 1730 đến 1748). "Tự do là điều thời nay rất ngưỡng mộ và hăng say theo đuổi... vì tự do đích thực là dấu hiệu đặc sắc nhất về hình ảnh Thiên Chúa nơi con người... vì thế phẩm giá con người đòi hỏi họ phải hành động theo một chọn lựa có ý thức, và tự do, nghĩa là chính họ phải được thúc đẩy và hướng dẫn từ nội tâm chứ không do bản năng hoặc áp lực bên ngoài" (MV 17). I. Tự do đích thực. Thiên Chúa tạo dựng con người có lý trí và tự do, nhờ đó có sáng kiến và làm chủ hành vi của mình. Tự do là khả năng hành động hoặc không hành động, làm cái nầy hay làm cái kia, chọn lựa sự thiện hoặc sự ác, tăng trưởng tới toàn thiện hoặc suy sụp trong tội lỗi. Tự do là nguồn mạch sinh ra khen thưởng hoặc quở phạt, có công hay đáng tội. Khi chọn bất tùng phục hoặc chọn sự ác là ta lạm dụng tự do, và làm cho mình "nô lệ tội lỗi" (x.ra 6,17). Trái lại, khi ta càng làm điều thiện, ta càng tự do hơn. Như vậy, con người chỉ tự do đích thực khi phục vụ điều thiện và sự công chính; và tự do ấy chỉ đạt tới hoàn hảo khi họ tìm kiếm Đấng Tạo Hóa và tự nguyện gắn bó với Người, nhờ đó họ đạt tới hạnh phúc thật. Đức Maria và các Thánh là những người tự do đích thực. II. Tự do và trách nhiệm. Khi con người đã suy nghĩ và chủ ý hành động một cách tự do thì con người bị ràng buộc với hành động đó, nghĩa là phải chịu trách nhiệm về hành động của mình. Tất cả mọi hành động do con người đã trực tiếp muốn thì trách nhiệm qui về họ. Trách nhiệm nầy có thể giảm bớt thậm chí có thể không còn nữa, do họ đã không hiểu biết, hoặc do vô tình mà làm, do bị bạo lực hay bị sợ hãi, do quá quen hoặc do cảm xúc quá mạnh, do các nhân tố tâm thần hoặc xã hội khác... Như vậy tự do là đặc tính của các hành vi thuộc con người, được gọi là hành vi nhân linh. Vì thế mỗi người đều có quyền tự nhiên đòi người khác phải thừa nhận mình là người có tự do và trách nhiệm; và khi mỗi người hành xử quyền tự do của mình là phải hành xử trong tôn trọng quyền hành xử tự do của người khác. Quyền hành xử tự do là một đòi hỏi không thể tách rời khỏi phẩm giá con người, nhất là trong vấn đề luân lý và tôn giáo. Quyền đó đòi dân luật phải công nhận cũng như bảo vệ trong những gì liên quan đến công ích và trật tự công cộng. Con người có trách nhiệm về tự do của mình và tôn trọng tự do chính đáng của người khác. III. Tự do và tội lỗi. Vì có ý chí tự do nên mỗi người phải tự quyết định về chính mình. Tuy nhiên tự do của con người chỉ có giới hạn và dễ lầm lẫn. Mà sự thực là họ đã lầm lẫn đã tự ý phạm tội, đã tự dối mình để chối bỏ dự án yêu thương của Thiên Chúa, và trở thành nô lệ tội lỗi. Việc con người sử dụng sai tự do của mình lúc ban đầu đã sinh ra muôn ngàn sai lầm khác khiến "từ lòng người phát xuất những ý định xấu: tà dâm, trộm cắp... " (Mc 7,21,23) gây nên bao điều bất hạnh và áp bức suốt dòng lịch sử. Tự do của con người chỉ giới hạn nghĩa là họ không có quyền nói và làm bất cứ điều gì. Do đó, thật là sai lầm khi "con người tự coi mình được làm chủ tự do của mình, được tự túc để thỏa mãn tư lợi trong việc hưởng thụ của cải trần gian" (Thánh bộ Đức Tin). Ngoài ra, họ còn thường bỏ qua và vi phạm cả những điều kiện để hành xử tự do cách chính đáng trong phạm vi kinh tế, xã hội, chính trị, văn hóa... chẳng hạn chủ trương kinh tế chỉ huy độc tài quân phiệt, độc đảng, tôn giáo độc quyền... Những mù quáng và bất công đó khiến cho kẻ mạnh cũng như người yếu đuối bị cám dỗ vi phạm luật bác ái. Làm như thế con người gây tổn thương cho chính tự do của mình, trở thành nô lệ chính mình và cắt đứt tình anh em với mọi người, cũng như nổi loạn chống Thiên Chúa.   IV. Tự do và ân sủng. Con người đã hành xử tự do sai lầm nên bị giam cầm trong nô lệ tội lỗi và sự xấu. Nhưng "Chúa Kitô đã dùng thập giá vinh quang để giải thoát cho ta được tự do" (Gl 5,1), và ban cho mỗi người quyền thống trị tội, đồng thời giúp ta tìm lại ý nghĩa của tự do, nhờ đó ta có thể đạt tới điều thiện và chu toàn ơn gọi "làm con cái Thiên Chúa" (Rm 8,21). Như thế, Chúa Kitô vừa ban khả năng vừa ban cả phương tiện để ta có thể đạt tới điều thiện cao nhất, đạt tới chí thiện "như Cha trên trời là Đấng hoàn thiện" (Mt 5,48). Khả năng và phương tiện ấy, giáo lý gọi là ân sủng. Nhưng khi ban ân sủng cho ta, Thiên Chúa không cưỡng bức hay trấn áp ta, mà chỉ mời gọi ách dịu dàng êm ái. Ta luôn vẫn hoàn toàn tự do. Ta nghe theo để tiếp nhận khả năng cũng như phương tiện Thiên Chúa ban thì ta được phúc. Trái lại, ta nhất quyết từ chối hay phản đối thì ân sủng trở thành vô ích, chỉ còn lại lòng thương xót vô cùng của Thiên Chúa và lòng chai đá cứng cỏi của ta. Ân sủng của Chúa không cạnh tranh với tự do của ta, mà trái lại, hễ ta càng buông mình theo thúc đẩy của ân sủng thì tự do nội tâm của ta càng tăng triển, và ta càng được kiên vững trong thử thách cũng như trước mọi áp lực và cưỡng bức của trần gian; như kinh nghiệm cầu nguyện chứng tỏ. Chúa Thánh Thần là Đấng thánh hóa sẽ dùng ân sủng để giáo dục tự do nội tâm của chúng ta, giúp ta trở thành những cộng tác viên tự nguyện cho công trình của Người trong Hội Thánh và thế giới.   V. Tự do của con cái Thiên Chúa. Các nhà hiền triết Á Đông chúng ta xưa, chưa được ánh sáng Thiên Chúa mặc khải, nhưng đã trực giác rằng con người thuở ban sơ vốn có tính "thiện" và vẫn ấp ủ mơ ước đạt tới chí thiện, tuy chưa rõ chí thiện là gì. Khi Chúa Kitô đến, Người đã giải thoát ta khỏi nô lệ tội lỗi và mặc khải cho biết chí thiện là "hoàn thiện như Cha trên trời"(Mt 5,48). Tuy nhiên đó là lý tưởng siêu việt, con người tội lỗi làm sao vươn tới được, nhưng ta có ơn gọi và gương mẫu vừa tầm ta hơn là Đức Giêsu Kitô, Con Chúa Cha, Đấng đã xuống thế làm người để trở nên Trưởng tử giữa một đàn em đông đúc (x.ra 8,29). Ơn gọi của ta là trở nên nghĩa tử của Chúa Cha, trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Giêsu Kitô "Đấng đã giải thoát chúng ta để chúng ta được tự do" (Gl 5,1). Do đó ta có bổn phận tự nguyện đáp trả ơn gọi ấy bằng cách luôn chiến đấu để đạt tới "tự do của con cái Thiên Chúa" (Rm 8,21). Thánh Phêrô căn dặn "Anh em hãy sống như những người tự do, không phải như những người lấy tự do làm màn che sự gian ác, nhưng như tôi tớ của Thiên Chúa" (1Pr 2,16). Thánh Phaolô cũng khuyên: "Anh em đã được gọi để hưởng tự do, có điều là đừng lợi dụng tự do để sống theo xác thịt, nhưng hãy lấy đức mến mà phục vụ lẫn nhau" (Gl 5,13). Đó là cuộc chiến đấu thường ngày của mỗi người, cuộc chiến đấu không dễ dàng, vì Đức Giêsu cũng đã bị cám dỗ, Kitô hữu luôn phải đối diện với cám dỗ thử thách. Kitô hữu phải không ngừng chế ngự và thuần hóa cái lý trí và ý chí phàm tục, thường chống lại tự do của con cái Thiên Chúa. Chế ngự và thuần hóa bằng cách buông theo ân sủng của Chúa Thánh Thần, bởi vì "ở đâu có Thần Khí của Chúa, ở đó có tự do" (2Cr 3,17). Thần Khí của Chúa giúp ta trở nên tôi tớ để phục vụ Thiên Chúa và anh em như Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta.   Bài 40 TRÁCH NHIỆM LUÂN LÝ (x. SGLC từ 1749 đến 1775). "Xét theo phẩm giá, mọi người vì là những nhân vị, nghĩa là người có lý trí và ý chí tự do, nên phải chịu trách nhiệm về cá nhân mình" (Tuyên ngôn về tự do tôn giáo 2)... Vậy trước tòa án Thiên Chúa, mỗi người sẽ phải trả lẽ về đời sống của mình tùy theo chính họ đã làm điều thiện hay điều ác" (MV 17). I. Chủ thể luân lý và hành vi nhân linh. Mỗi người là một nhân vị, nghĩa là có những đặc thù là họ khác biệt với các hữu thể khác, và làm nên phẩm giá cũng như quyền hạn của họ. Nhân vị có đặc tính nổi bật nhất là chủ thể tính, nghĩa là làm chủ nhân duy nhất của các hành vi cũng như của việc thực hiện bản thân mình. Mỗi người là một nhân vị, nên là một chủ thể, nhưng họ phải làm chủ mình và các quyền hạn của mình, sao cho nhân vị mình được triển nở phù hợp với phẩm giá; và họ còn nghĩa vụ phải tôn trọng chủ thể và quyền hạn của các nhân vị khác trong xã hội. Làm chủ như thế con người trở thành một chủ thể luân lý. Và khi con người hành xử quyền làm chủ và các nghĩa vụ của mình thì những hành vi nào phát xuất từ ý chí tự do đều được gọi là hành vi nhân linh. Như vậy khi hành xử tự do theo lý trí thì con người trở thành một chủ thể luân lý. Và hành vi phát xuất từ phán đoán và tự do chọn lựa ấy, xét về mặt luân lý, là hành vi nhân linh, hành vi có thể tốt hay xấu, có tính luân lý. II. Tính luân lý (tốt xấu) của hành vi nhân linh. Tính luân lý của hành vi nhân linh tùy thuộc vào ba nguồn là: đối tượng được chọn, mục đích nhắm tới hay ý tưởng, và hoàn cảnh của hành vi. Ba nguồn nầy là những yếu tố làm cho hành vi nhân linh có tính luân lý. Đối tượng được chọn là: Tiêu chuẩn đầu tiên để xét xem một hành vi tốt hay xấu. Đối tượng được chọn sẽ định loại hành vi là tốt xấu, tùy theo lý trí nhận xét và phán đoán nó có phù hợp hay không với sự thiện đích thực. Chọn một đối tượng tự bản tính là xấu thì toàn bộ hành vi là xấu, dầu ta có nhắm tới mục đích nào hoặc làm trong hoàn cảnh nào. Chẳng hạn chọn đối tượng là tà dâm, một điều tự bản chất là xấu thì dầu có nhắm tới mục đích hay ở trong hoàn cảnh nào cũng vẫn là hành vi xấu. Mục đích nhắm tới hay ý hướng đây là yếu tố chủ chốt để đánh giá tính luân lý của hành vi, chúng có thể làm thay đổi hoàn toàn bản chất luân lý của đối tượng và khiến đối tượng tốt có thể thành xấu. Bởi vì cũng một đối tượng nhưng mục đích nhắm tới và ý hướng thúc đẩy lại khác nhau. Chẳng hạn phục vụ hay bố thí có thể vì yêu mến Chúa, vì muốn giúp đỡ tha nhân, cũng có thể để mong nhận lại một ân huệ, hoặc để khoe mình lấy tiếng... Nhưng mục đích không thể biện minh cho phương tiện. Hoàn cảnh của hành vi, bao gồm cả các hậu quả của nó, là những yếu tố phụ thuộc vào hành vi luân lý, chúng có thể làm hành vi tốt hơn hay xấu hơn, hoặc làm cho chủ thể hành vi thêm hoặc bớt trách nhiệm. Các hoàn cảnh tự chúng không thể biến đổi tính luân lý của hành vi. III. Đam mê và đời sống luân lý. Con người tự điều hành mình tới hạnh phúc nhờ các hành vi nhân linh, trong đó các đam mê có phần đóng góp quan trọng. Theo truyền thống Kitô giáo, đam mê là những cảm xúc hoặc những chuyển động mạnh mẽ của tình cảm, hướng con người đến hành động hoặc không hành động, tùy theo họ cảm thấy hoặc tưởng là tốt hay xấu. Đam mê là chỗ giao lưu giữa sinh hoạt cảm giác và sinh hoạt của tinh thần. Nó gồm nhiều thứ, nhưng căn bản nhất là yêu thương. Từ đam mê căn bản nầy phát xuất ra các đam mê khác: yêu thương được thỏa mãn thì vui mừng, chưa được thì ham muốn, được nhưng chưa chắc thì sợ mất, muốn mà không được thì buồn, bị phản bội thì giận ghét... Xét về mặt luân lý, đam mê tự bản chất thì không xấu cũng không tốt. Đam mê là những cảm xúc sôi nổi làm chuyển biến cơ thể con người (khóc, cười, đỏ mặt, tái xanh, run... ) và có vai trò quan trọng trong đời sống luân lý. Đam mê được đánh giá tốt hay xấu tùy theo chúng thực sự bị chi phối bởi lý trí và ý chí, và khi chúng góp phần vào một hành vi tốt hay xấu. Vì thế con người phải làm chủ để sử dụng các đam mê, không tiêu diệt chúng cũng không để chúng tung hoành phóng túng. Những đam mê được sử dụng tốt có thể trở thành nhân đức (yêu thương biến thành bác ái...) trái lại, nếu để chúng phóng túng có thể biến thành tính xấu (buồn biến thành thất vọng...). Kitô hữu còn được Chúa Thánh Thần trợ giúp để sử dụng và quy hướng đam mê tới các nhân đức Tin, Cậy, Mến để có thể hiệp thông với Thiên Chúa, với nhau và với vũ trụ vạn vật, đảm bảo cho hạnh phúc cả đời nầy lẫn đời sau. IV. Lý trí và con tim. "Muốn đạt được sự thiện luân lý tới mức toàn hảo, con người cần được động viên không những chỉ bởi ý chí mà còn bởi cả con tim nữa" (Sách Giáo lý 1775) Thiên Chúa đã ban cho con người phẩm giá cao cả là vừa có lý trí vừa có con tim, con người phải sử dụng mọi năng lực của mình trong việc theo đuổi ơn gọi hưởng hạnh phúc vĩnh cửu. Nhưng con người đã bị thương tổn vì nguyên tội, nên càng phải tự mình cố gắng và cậy nhờ ân sủng Chúa Thánh Thần trợ giúp mới làm chủ các năng lực đó cách hài hòa và kiên trì được. Đó chính là trách nhiệm của Kitô hữu đối với ơn gọi của mình. Kitô giáo nói đến đam mê, còn người Á Đông chúng ta gọi là "thất tình" (bảy tình) đó là: vui (hỉ), giận (nộ), buồn (ai), sợ (cụ), yêu (ái), ghét (ố), ham muốn (dục). Kitô giáo cũng như các nhà hiền triết Á Đông chúng ta không chủ trương diệt các đam mê, nhưng mời gọi ta làm chủ và quy hướng chúng về mục đích tốt, về "chí thiện" (Sự thiện toàn hảo), chẳng hạn không ham muốn giàu sang nhưng ham muốn làm vinh danh Thiên Chúa; hoặc mời gọi ta giữ cho chúng không thái quá, không bất cập, giữ sự "trung dung" đúng nghĩa, chẳng hạn buồn mà không thất vọng, giận mà không phạm tội... Dùng lý trí để làm chủ đam mê và hướng chúng tới "chí thiện" thì trí năng được khích thích và dễ thăng tiến, ý chí được tăng cường và dễ kiên quyết. Khi lý trí và con tim cùng chung sức và nhờ ân sủng Chúa Thánh Thần trợ giúp, con người chắc chắn đạt tới chí thiện. Bài 41 LƯƠNG TÂM (x. SGLC từ 1776 đến 1802). "Dân ngoại là những người không có luật Môsê, nhưng mỗi khi họ theo lẽ tự nhiên mà làm những gì luật dạy thì họ là luật cho chính mình, mặc dù họ không có luật Môsê. Họ cho thấy là điều gì luật đòi hỏi thì đã được khắc ghi trong lòng họ, lương tâm họ cũng chứng thực điều đó, vì họ tự phán đoán trong lòng, khi thì cho mình là trái, khi thì cho mình là phải" (Rm 2,14-16). I. Lương tâm là gì? Dù có niềm tin tôn giáo hay không, mỗi người đều khám phá ra tận đáy lòng mình có một tiếng nói, một lề luật mà chính mình không đặt ra, nhưng vẫn luôn nhắc nhở mình phải tuân theo. Tiếng nói ấy vang lên rất đúng lúc, kêu gọi con người phải yêu mến và thi hành điều thiện cũng như tránh điều ác (x.MV 16). Ta gọi tiếng nói ấy là lương tâm, và bởi vì tất cả mọi người đều nhìn nhận sự có mặt của lương tâm, nên lương tâm trở thành nền tảng để tất cả mọi người cùng tìm kiếm và giải quyết những vấn đề luân lý trong cuộc sống cá nhân cũng như trong cuộc sống xã hội. Đối với người Kitô hữu, lương tâm là tâm điểm sâu kín nhất và là nơi Thiên Chúa hiện diện trong lòng người. Ở đó "con người hiện diện một mình với Thiên Chúa và tiếng nói của Người vang dội trong thâm tâm họ" (MV 16). Chính vì thế, khi nghe theo tiếng lương tâm, ta có thể cảm nhận được Thiên Chúa đang nói với mình, và nhờ phán quyết của lương tâm, ta ý thức và nhận ra những quy luật của Thiên Chúa. Để có thể nghe được và tuân theo tiếng lương tâm, cần phải lắng đọng tâm hồn và nhìn vào phía bên trong. Cuộc sống hôm nay quá ồn ào và vội vã, con người hôm nay có khuynh hướng trốn tránh suy nghĩ, hồi tâm và kiểm điểm. Càng sống trong thời đại như thế, ta càng cần phải tập thói quen trở về với chính mình trong thinh lặng và suy niệm; nhờ đó có thể gặp gỡ Chúa là Đấng ở trong ta còn sâu hơn chính ta (Âu tinh). II. Huấn luyện lương tâm. Lương tâm đã được Thiên Chúa đặt để nơi lòng người chứ không do con người tạo nên, tuy nhiên lương tâm ấy có thể bị biến chất do những điều kiện sống chung quanh. Vì thế, cần phải huấn luyện lương tâm, để có thể phán đoán ngay thẳng và chân thật. Lương tâm ngay thẳng bao gồm ba yếu tố: Nhận biết các nguyên tắc luân lý. Ứng dụng những nguyên tắc ấy vào những hoàn cảnh cụ thể. Phán quyết về các hành vi cụ thể đã làm hay sắp làm. Huấn luyện lương tâm là nhiệm vụ phải thực hiện suốt đời. Công việc ấy phải được bắt đầu từ thuở ấu thơ, vì đây là giai đoạn rất quan trọng trong việc hình thành nhân cách. Được huấn luyện tốt, lương tâm sẽ trở thành tấm bảng chỉ đường quý giá, dẫn con người đến tự do đích thực, và mang lại sự bình an cho tâm hồn. Trong việc huấn luyện lương tâm, Lời Chúa đóng vai trò rất quan trọng. Vì "lương tâm là vị đại diện thứ nhất trong các đại diện của Chúa Kitô" (Newman), nghĩa là lương tâm chính là Lời của Chúa Kitô ở mức độ khởi đầu; cho nên nhờ ánh sáng Lời Chúa, lương tâm sẽ đạt đến sự phát triển trọn vẹn. III. Để có thể chọn lựa đúng đắn theo lương tâm. Kinh nghiệm cho thấy khi phải đứng trước một chọn lựa, lương tâm có thể phán đoán đúng, theo lý trí và luật Thiên Chúa, nhưng cũng có thể phán đoán sai. 1. Phán đoán sai: Những lệch lạc trong phán đoán luân lý có thể xuất phát từ nhiều lý do: thiếu hiểu biết về Chúa Kitô và Tin Mừng, gương xấu của người khác, nô lệ các đam mê, quan niệm sai lầm về tự do lương tâm, khước từ quyền bính và giáo huấn của Hội Thánh, thiếu hoán cải và bác ái. Thông thường, mỗi người phải chịu trách nhiệm về sự thiếu hiểu biết của mình, nhất là khi họ "không lo lắng tìm kiếm chân lý và điều thiện, hoặc vì thói quen phạm tội mà lương tâm dần dần trở nên mù quáng" (x.MV 16). Tuy nhiên nếu không thể khắc phục tình trạng thiếu hiểu biết hoặc phán đoán sai lầm không phải do bản thân mình, thì người đó không phải chịu trách nhiệm về điều xấu đã làm. 2. Chọn lựa đúng: Để có thể chọn lựa đúng đắn theo lương tâm ngay thẳng, ta phải dựa vào đức khôn ngoan, lời khuyên bảo của những người hiểu biết cũng như sự trợ lực của Chúa Thánh Thần. Tuy nhiên có một vài nguyên tắc có thể áp dụng trong mọi hoàn cảnh: Không được lấy mục đích tốt biện minh cho phương tiện xấu. Khuôn vàng thước ngọc "tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta" (Mt 7,12). Đức Ái Kitô giáo đòi hỏi ta phải tôn trọng tha nhân và lương tâm của họ. Vì thế không được xúc phạm đến tha nhân hoặc làm gương xấu cho người khác. Bài 42 CÁC NHÂN ĐỨC (x. SGLC từ 1903 đến 1845). "Những gì là chân thật, cao quý, những gì là chính trực, tinh tuyền, những gì đáng mến và đem lại danh thơm tiếng tốt, những gì là đức hạnh đáng khen thì xin anh em hãy để ý và Thiên Chúa bình an sẽ ở với anh em" (Pl 4,8-96). Đối với người Việt Nam, chữ Đức đóng một vai trò rất quan trọng, và Đức được hiểu là "cái biểu hiện tốt đẹp của đạo lý trong tính nết, tư cách, hành động của con người" (Từ điển tiếng Việt NXB Khoa học Xã hội Hà Nội 1988). Đã biết Đạo thì phải sống Đạo, và cuộc sống ấy thể hiện qua cái Đức. Quan niệm nầy thật gần gũi với người tín hữu Kitô. Với Kitô hữu, nhân đức là một xu hướng thường xuyên và kiên định để làm điều thiện. Người nhân đức là người hướng về điều thiện với tất cả năng lực thể xác và tinh thần. Vậy đâu là những nhân đức căn bản của đời sống Kitô hữu, và phải làm gì để có được những nhân đức ấy? I. Các đức tính nhân bản Các đức tính nhân bản là những xu hướng bền vững, dẫn đến thái độ kiên định và thói quen hướng thiện của lý trí và ý chí; nhờ đó con người điều chỉnh các hành vi và cách sống của mình theo lý trí và đức tin. Có bốn đức tính căn bản: khôn ngoan, công bình, can đảm và tiết độ. Khôn ngoan là đức tính giúp ta nhận ra đâu là điều thiện đích thực trong từng hoàn cảnh, và khi đã nhận ra thì biết chọn lựa phương thế thích hợp để đạt tới. Không nên lầm lẫn khôn ngoan với nhút nhát và sợ hãi, lại càng không thể đồng hóa khôn ngoan với sự tráo trở, giả hình. Nhờ khôn ngoan ta biết ứng dụng lề luật luân lý vào những hoàn cảnh cụ thể để thi hành điều thiện cách tốt đẹp nhất. Công bình là trả cho Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên Chúa, và trả cho tha nhân những gì thuộc về họ. Công bình đối với Thiên Chúa được gọi là "nhân đức thờ phượng" còn đối với con người, công bình là tôn trọng quyền lợi của mỗi người, đối xử công minh với mọi người và thực thi công ích. Can đảm là kiên trì và quyết tâm theo đuổi điều thiện cho dẫu có nhiều khó khăn cản lối. Nhờ đó, ta cương quyết chống lại các cơn cám dỗ, vượt qua các chướng ngại trong đời sống luân lý, chiến thắng sự sợ hãi kể cả cái chết để dám sống cho chính nghĩa. Tiết độ là biết điều tiết sức lôi cuốn của những lạc thú và sử dụng đúng mức những của cải trần thế. Nhờ đó ta làm chủ được các bản năng tự nhiên và kiềm chế các ham muốn trong giới hạn chính đáng. Những đức tính nầy được gọi là nhân bản nghĩa là thuộc về con người. Đã là người, phải có những đức tính căn bản đó. Nhiều người tuy không có niềm tin tôn giáo nhưng vẫn có những đức tính đáng quý nầy. Người Kitô hữu lại cần phải có những đức tính nhân bản hơn những người khác, vì muốn làm con Thiên Chúa thì trước hết phải sống cho ra người. Có được những đức tính nhân bản là nhờ giáo dục, sự kiên trì tập luyện và thực hành trong đời sống. Tuy nhiên tội lỗi đã làm con người bị tổn thương; vì thế, ngoài những nỗ lực tự nhiên, ta còn cần đến ơn Thiên Chúa nâng đỡ nhờ cầu nguyện, lãnh nhận các bí tích và cộng tác với ơn soi sáng của Chúa Thánh Thần. II. Các nhân đức đối thần Gọi là nhân đức đối thần vì những nhân đức nầy quy chiếu trực tiếp về Thiên Chúa như căn nguyên, động lực và đối tượng. Đối với Kitô giáo, các nhân đức đối thần là nền tảng và linh hồn của toàn bộ đời sống luân lý. Thiên Chúa ban cho ta những nhân đức nầy, để ta có khả năng hành động như con cái Thiên Chúa và đáng hưởng sự sống đời đời. Có ba nhân đức đối thần: Tin, Cậy và Mến (x.1Cr 13,13). 1. Đức Tin: Đức Tin là một nhân đức nhờ đó ta tin vào Thiên Chúa, tin tất cả những gì Người nói và mặc khải, cũng như những gì Hội Thánh dạy ta phải tin. Đức Tin là một hồng ân nhưng đồng thời cũng là sự đáp trả của con người trước hồng ân của Thiên Chúa. Sự đáp trả ấy mang tính toàn diện nghĩa là của cả lý trí, tình cảm và hành động. Vì thế, đức tin phải được diễn tả ra ngoài bằng việc làm cụ thể. "Đức tin không có việc làm là đức tin chết tận gốc rễ" (Gc 2,26). Hơn thế nữa, người môn đệ Chúa Kitô còn phải can đảm làm chứng và truyền bá đức tin (x.GH 42). Đòi hỏi nầy xuất phát từ chính bản thân của đức tin, và là đòi hỏi cần thiết để được cứu độ "Ai nhận Thầy trước mặt thiên hạ thì Thầy nhận người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời. Còn ai chối Thầy trước mặt thiên hạ thì Thầy cũng chối người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời" (Mt 10,32-33). 2. Đức Cậy: Đức Cậy là nhân đức nhờ đó ta khao khát Nước Trời, và sự sống vĩnh cữu như hạnh phúc của đời mình, tin tưởng vào các lời hứa của Chúa Kitô, và phó thác vào ơn trợ lực của Chúa Thánh Thần. Con người ta sống không thể không có hy vọng, nếu không nói là người ta sống nhờ hy vọng. Nhưng điều quan trọng là hy vọng vào ai, hy vọng cái gì? Và làm thế nào để đạt tới? Đối với người Kitô hữu, đích điểm của hy vọng không chỉ là hạnh phúc trần thế, nhưng chính là Chúa, là Nước trời và sự sống vĩnh cửu. Đồng thời người Kitô hữu ý thức rằng tự mình không thể đạt tới hạnh phúc vĩnh cửu ấy, nhưng phải nương tựa vào Chúa. Chính vì thế hy vọng trở thành cậy trông. Đức cậy trông là cái neo chắc chắn bền vững của tâm hồn, là vũ khí bảo vệ ta trong cuộc chiến thiêng liêng, và mang lại cho ta niềm vui ngay giữa những gian truân thử thách. "Hãy vui mừng vì có niềm hy vọng, cứ kiên nhẫn lúc gặp gian truân... " (Rm 12,12). Đời sống cầu nguyện vừa diễn tả vừa nuôi dưỡng đức cậy trông, vì thế ta cần phải đi sâu hơn mỗi ngày vào đời cầu nguyện. 3. Đức Mến: Đức Mến là nhân đức nhờ đó ta yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự vì chính Chúa, và vì yêu mến Thiên Chúa, ta yêu mến người thân cận như chính bản thân. Đức Mến thúc đẩy ta sống con thảo với Cha trên trời, và là anh em của mọi người. Trong ngôn ngữ Việt Nam, người nhân đức là "kẻ có lòng thương người" (x. Từ điển tiếng Việt); nghĩa là lòng yêu thương được coi như cốt lõi của đạo đức. Quan điểm nầy thật gần gũi với đạo Kitô, vì Đức Giêsu đã đặt đức mến làm điều răn mới. Đức mến được coi là "mối dây liên kết tuyệt hảo" (Cl 3,14) là linh hồn của mọi nhân đức, sự viên mãn của lề luật, là nguồn mạch và cùng đích của việc thực hành các nhân đức: "Hiện nay đức tin, đức cậy và đức mến, cả ba đều tồn tại, nhưng cao trọng hơn cả là đức mến" (1Cr 13,13). Chúa Kitô chính là gương mẫu cao cả nhất. Ngài đã chịu chết vì yêu mến ta ngay lúc ta còn thù nghịch với Thiên Chúa (x.ra 5,10). Vì thế, Ngài mời gọi ta yêu thương như Người (x.Mt 5,44) yêu cả kẻ thù và đón nhận người bé mọn nghèo hèn như đón nhận chính Ngài (Mt 25,40-45). Ngoài ba nhân đức đối thần, Chúa Thánh Thần còn ban các hồng ân và hoa trái thiêng liêng, giúp người tín hữu dễ dàng sống theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Bảy ơn Chúa Thánh Thần là: Ơn khôn ngoan, ơn thông minh, ơn biết lo liệu, ơn dũng cảm, ơn hiểu biết, ơn đạo đức và ơn biết kính sợ Chúa. Truyền thống của Hội Thánh cũng nói đến 12 hoa trái của Thần Thánh: "Bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nại, nhân từ, lương thiện, hiền hòa, khoan dung, trung tín, khiêm nhu, tiết độ và thanh khiết" (Gl 5,22-23). Bài 43 TỘI LỖI (x. SGLC từ 1846 đến 1876). "Nếu chúng ta nói là mình không có tội thì chúng ta tự lừa dối chính mình và sự thật không có trong ta. Nếu chúng ta thú nhận tội lỗi mình thì Thiên Chúa là Đấng trung thành và công chính sẽ tha tội cho ta và thanh tẩy ta sạch mọi điều bất chính" (1Ga 1,8-9). I. Tội lỗi và lòng Thiên Chúa thương xót Thánh Âu tinh định nghĩa tội là "Một lời nói, một hành vi, một ước muốn trái với lề luật vĩnh cửu". Tuy nhiên phải nhìn thấy đàng sau lề luật ấy là giao ước yêu thương giữa con người và Thiên Chúa. Cũng như một người chồng khi phạm tội ngoại tình, anh ta không chỉ vi phạm Luật Hôn Nhân gia đình, nhưng chủ yếu là anh đã xúc phạm đến vợ mình, và giao ước yêu thương hai người đã ký kết. Chính vì thế, tội là sự xúc phạm đến chính Thiên Chúa, là chống lại tình yêu Thiên Chúa dành cho ta, là yêu mình đến độ khinh thị Thiên Chúa. Nhưng cho dẫu con người tội lỗi, Thiên Chúa vẫn thương xót con người. Lòng thương xót ấy được bầy tỏ cụ thể nơi Đức Giêsu, nhất là trong cuộc khổ nạn của Người. Suốt cuộc sống công khai, Đức Giêsu không ngừng rao giảng lòng thương xót của Thiên Chúa và ban ơn tha thứ cho tội nhân. Tuy nhiên chính trong cuộc khổ nạn mà tấm lòng của Thiên Chúa được bày tỏ cách trọn vẹn. Ở đó, tội lỗi bộc lộ tính hung bạo và đa dạng của nó: sự cứng lòng và thái độ thù hận của các thủ lãnh và dân chúng, sự hèn nhát của Philatô và độc ác của quân lính, sự phản bội của Giuđa và sự chối bỏ của Phêrô, cũng như thái độ bỏ rơi của các môn đệ. Nhưng cũng chính vào giờ tối tăm ấy, Chúa Kitô đã tự hiến và âm thầm trở nên nguồn mạch vô tận thông ban ơn tha tội cho chúng ta. II. Hình thái và mức độ của tội Tội lỗi rất đa dạng. Trong thư Rôma, Thánh Phaolô đã liệt kê các thứ tội "Dâm bôn, ô uế, phóng đãng, thờ quấy, phù phép, hận thù, bất hòa, ghen tương, nóng giận, tranh chấp, chia rẽ, bè phái, ganh tị, say sưa, chè chén và những điều khác như vậy" (1,28-32). Thông thường người ta phân biệt tội theo đối tượng, nghĩa là dựa vào các điều răn mà tội nhân vi phạm. Cũng có thể phân biệt tội dựa vào tương quan của ta với Thiên Chúa, với tha nhân hoặc với chính bản thân. Tuy nhiên, nguồn gốc sâu xa của mọi tội lỗi là chính lòng người "Vì tự lòng xuất phát những ý định gian tà, những tội giết người, ngoại tình, tà dâm, trộm cắp, làm chứng gian và vu khống. Đó chính là những cái làm cho con người ra ô uế" (Mt 15,19-20). Tội lỗi có nhiều mức độ. Truyền thống Hội Thánh nhìn nhận cách phân biệt tội trọng và tội nhẹ như đã có trong Kinh Thánh. 1. Tội trọng: Một tội được coi là trọng khi hội đủ ba yếu tố: Phạm một lỗi nặng, có ý thức đầy đủ và cố tình. Lỗi nặng được xác định trong mười điều răn và Đức Giêsu lập lại: Chớ giết người, chớ ngoại tình, chớ trộm cắp, chớ làm chứng gian, chớ làm hại ai, hãy thảo kính cha mẹ (x.Mc 10,14). Giữa các tội nầy, có tội nặng hơn và tội nhẹ hơn. Mức độ tội lỗi cũng tùy thuộc vào tương quan của tội nhân với phẩm giá của người bị xúc phạm, nếu hành hung cha mẹ thì nặng tội hơn hành hung người lạ. Có ý thức đầy đủ là biết hành vi đó là tội, trái với luật Thiên Chúa. Nếu thiếu hiểu biết ngoài ý muốn, tội nhân có thể được giảm hoặc miễn trách nhiệm. Nhưng không ai được coi là không biết đến những nguyên tắc của luân lý đã được ghi khắc trong lương tâm của mỗi người. Cố tình là đã biết, suy nghĩ cặn kẽ và ưng thuận. Nó trở thành một lựa chọn cá nhân, và tội nhân phải chịu trách nhiệm về lựa chọn của mình. Khi phạm tội trọng, con người đánh mất đức mến, tự tước bỏ ơn thánh hóa, tức là tình trạng ân sủng và phần rỗi đời đời bị đe dọa. Tuy nhiên quyền phán xét một con người là quyền thuộc về Thiên Chúa, Đấng công minh và cũng là Đấng giàu lòng xót thương. 2. Tội nhẹ: Chúng ta phạm tội nhẹ khi vi phạm luật luân lý trong điều nhẹ, hay lỗi điều nặng nhưng không hoàn toàn hiểu biết hoặc ưng thuận. Tội nhẹ không làm mất ơn thánh hóa, cũng không làm mất phúc thật vĩnh cửu. Tuy nhiên, tội nhẹ làm suy yếu Đức Ái, ngăn cản ta tiến triển trong cuộc thực hành các đức tính và điều thiện. Đồng thời người cố tình phạm tội nhẹ và không sám hối, sẽ đi dần đến chỗ phạm tội trọng và ảnh hưởng đến phần rỗi đời đời. Ngoài ra, Kinh Thánh còn nói tới tội phạm đến Thánh Thần (x.Mc 3,29). Đó là tội cố tình không hối cải và khước từ lòng thương xót của Thiên Chúa, vì thế cũng khước từ sự tha tội và ơn cứu độ do Chúa Thánh Thần ban cho. Không phải là Thiên Chúa không tha thứ, nhưng chính tội nhân tự tách mình ra khỏi lòng thương xót của Ngài, và tự kết án chính mình. III. Những hình thức khác của tội. 1. Thói xấu: Thói xấu xuất hiện khi những hành vi xấu được lập đi lập lại nhiều lần. Hậu quả là con người nghiêng chiều về điều ác, lương tâm mờ tối và lệch lạc trong việc thẩm định giá trị luân lý. Có thể xếp loại các thói xấu dựa vào các nhân đức mà chúng đối nghịch, hoặc dựa vào bảy mối tội đầu: kiêu ngạo, hà tiện, mê dâm dục, ghen ghét, hờn giận, mê ăn uống và làm biếng. 2. Đồng lõa với tội lỗi: Tội là một hành vi cá nhân, nhưng ta phải chịu trách nhiệm về tội của người khác, khi cộng tác với họ dưới nhiều hình thức: tham gia trực tiếp và cố tình; ra lệnh, xúi giục hoặc tán thành; không ngăn cản khi có bổn phận phải làm; bao che cho người làm điều ác. Tội lỗi là kinh nghiệm thực tế của mỗi người và mọi người "Nếu chúng ta nói mình không có tội thì ta tự lừa dối mình" (1Ga 1,8). Nhưng đồng thời, Kinh Thánh xác quyết "Ở đâu tội lỗi đã lan tràn, ở đó ân sủng càng chứa chan gấp bội" (Rm 5,20). Nói như thế không phải để ta buông thả trong tội lỗi, nhưng để ta tin tưởng vào tình thương tha thứ của Thiên Chúa, và tình thương ấy thúc đẩy ta vươn lên không ngừng, sống phù hợp với ơn gọi làm con cái Chúa. Bài 44 ĐỜI SỐNG XÃ HỘI (x. SGLC từ 1878 đến 2948). "Thiên Chúa đã dựng nên con người không phải để sống riêng rẽ, nhưng để tạo nên sự liên kết xã hội. Cũng thế, Thiên Chúa không muốn thánh hóa và cứu rỗi loài người cách riêng rẽ, thiếu liên kết, nhưng Ngài muốn qui tụ họ thành một dân tộc, để họ nhận biết chính Ngài trong chân lý, và phụng sự Ngài trong thánh thiện" (MV 32). "Con người là sinh vật mang tính xã hội, và càng ngày mối liên hệ giữa con người và xã hội càng trở nên chặt chẽ hơn. Đời sống Đức tin cũng không thể tách ra khỏi những sinh hoạt xã hội. Hơn thế nữa, đức tin là men, là muối, là ánh sáng cho mọi sinh hoạt của con người trong xã hội. Vì thế, cần tìm hiểu đời sống xã hội để sống đức tin cách cụ thể và mang lại nhiều hoa trái" (MV 32). I. Con người và xã hội. 1. Đặc tính cộng đoàn của ơn gọi làm người: Kinh Thánh xác định rõ ràng: lòng yêu mến Thiên Chúa không thể tách rời khỏi tình yêu thương anh em (x.ra 13,9-10; 1Ga 4,10). Hơn thế nữa, khi cầu nguyện với Chúa Cha "Xin cho mọi người nên một... như Chúng Ta là một" (Ga 17,21-22), Đức Giêsu đã nói lên một sự tương tự nào đó giữa sự kết hợp của Ba Ngôi Thiên Chúa với sự kết hợp của con cái Chúa trong chân lý và Đức Ái (MV 24). Con người là hình ảnh Thiên Chúa và Thiên Chúa của chúng ta lại là cộng đoàn ba ngôi vị; vì thế, đặc tính cộng đoàn đã được in sâu vào bản tính con người. Thật vậy, con người cần được sống trong xã hội. Nhờ sự trao đổi, đối thoại với người khác và nhờ sự phục vụ lẫn nhau, con người phát triển khả năng của mình. Mỗi người đều đón nhận từ xã hội nhiều di sản làm nên nhân cách của mình, và đến lượt họ, phải góp phần xây dựng xã hội. Tuy nhiên, nếu đời sống xã hội giúp nhiều cho con người chu toàn sứ mạng của mình, kể cả sứ mạng tôn giáo thì cũng không thể phủ nhận rằng "con người vì những hoàn cảnh xã hội họ đang sống và tiêm nhiễm ngay từ thuở thiếu thời, nên nhiều khi xa cách không làm điều thiện và bị lôi kéo làm điều ác" (MV 25). Ngoài ra, sự can thiệp quá đáng của Nhà Nước có thể đe dọa tự do và sáng kiến của cá nhân. Chính vì thế phải làm sao để mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội được hài hòa và mang lại nhiều ích lợi. 2. Để xây dựng một quan hệ hài hòa: Để xây dựng một quan hệ tốt đẹp và ích lợi giữa cá nhân và xã hội, Hội Thánh đưa ra một vài hướng dẫn: Nguyên tắc hỗ trợ: Thiên Chúa đã không dành cho mình mọi quyền bính, nhưng Ngài đã trao phó cho mỗi tạo vật những chức năng phù hợp. Cũng vậy trong đời sống xã hội, một cộng đoàn lớn không thể can thiệp vào nội bộ một cộng đoàn nhỏ nhằm tước đoạt chức năng của nó; nhưng phải nâng đỡ và cùng hoạt động để mang lại công ích. Thang giá trị: Để đời sống xã hội thực sự giúp con người phát triển, phải tôn trọng thang giá trị chân chính, tức là biết đặt chiều kích nội tâm và tinh thần lên trên chiều kích thể lý và bản năng. Có những cái vốn chỉ là phương tiện nhưng người ta lại coi như cứu cánh tối hậu. Và nhiều khi người ta biến con người thành phương tiện sử dụng như những phương tiện vật chất, trong khi "Nhân vị là chính và phải là nguyên lý, chủ thể và cứu cánh của mọi định chế xã hội" (MV 25). Lời mời gọi hoán cải: Sống giữa xã hội, người Kitô hữu dễ dàng bị cuốn vào cơn lốc xã hội, kể cả những trào lưu xấu. Vì thế phải hoán cải, sự hoán cải sâu xa trong tâm hồn và thường xuyên. Đồng thời sự hoán cải ấy thúc đẩy ta can đảm cải thiện môi trường sống khi nó dẫn con người đến tội lỗi. "Phải có sự đổi mới tâm thức và những thay đổi sâu rộng trong xã hội" (MV 26). Trong thực tế, nhiều khi khó nhận ra được đâu là con đường phải đi, và phải có rất nhiều can đảm để dám đi con đường của Đức Ái, của Tình Thương hiến thân. Vì thế, cần cầu nguyện để đón nhận ơn Thiên Chúa nâng đỡ.   II. Tham gia đời sống xã hội. 1. Quyền bính: Mọi cộng đoàn nhân loại đều cần đến quyền bính cai trị, để duy trì trật tự và bảo vệ công ích. Với đức tin người Kitô hữu còn nhìn mọi quyền bính đều từ Thiên Chúa mà đến "Mỗi người phải phục tùng chính quyền, vì không có quyền bính nào mà không bởi Thiên Chúa và những quyền bính hiện hữu là do Thiên Chúa thiết lập" (Rm 13,1). Vì thế mọi người có bổn phận phải vâng phục, tôn trọng những người thực thi quyền bính. Ngược lại, người có quyền bính cũng không thể hành xử cách độc tài. Quyền bính chỉ được thi hành cách hợp pháp khi kiếm tìm, phục vụ công ích và sử dụng những phương thế thích hợp về mặt luân lý. Trong thực tế, ta thấy có nhiều thể chế chính trị khác nhau. Điều nầy không có gì lạ, vì "Đã hẳn cộng đoàn chính trị và công quyền xây nền tảng trên bản tính con người, cho nên cũng nằm trong trật tự do Chúa an bài, nhưng việc định đoạt một thể chế chính trị hay cắt cử người cầm quyền vẫn là quyền tự do của mọi công dân" (MV 74). Điều quan trọng là dù thể chế chính trị nào, cũng phải phục vụ lợi ích hợp pháp của cộng đoàn xã hội. 2. Công ích: Công ích là "Toàn bộ những điều kiện của đời sống xã hội cho phép những tập thể hay những phần tử riêng rẽ có thể đạt tới sự hoàn hảo riêng một cách đầy đủ và dễ dàng hơn" (MV 26). Như thế, công ích bao gồm ba yếu tố thiết yếu: Trước hết là tôn trọng con người, với những quyền căn bản của con người và sự tự do cần thiết cho ơn gọi làm người được phát triển. Chẳng hạn "quyền hành động theo tiêu chuẩn chính thực của lương tâm, quyền bảo vệ đời sống tư và quyền tự do chính đáng cả trong phạm vi tôn giáo" (MV 26). Thứ đến là an ninh xã hội, "những gì thiết yếu mà con người phải có để thực sự sống đời sống con người, như của ăn, áo quần, chỗ ở, quyền tự do chọn lựa bậc sống và quyền lập gia đình... (MV 26). Cuối cùng là tình trạng ổn định và an ninh trong xã hội. Bằng những phương thế thích hợp, chính quyền phải bảo vệ an ninh cho toàn xã hội, cũng như các thành viên trong xã hội. Ngày nay, mối liên hệ giữa các quốc gia càng ngày càng trở nên chặt chẽ. Vì thế, phải quan tâm đến công ích ở tầm vóc quốc tế. Để đạt mục đích nầy "Các cơ quan của cộng đoàn quốc tế tùy theo phận vụ mình, phải đáp ứng những nhu cầu muôn mặt của con người trong lĩnh vực xã hội như lương thực, sức khỏe, giáo dục, việc làm... trợ giúp nỗi đau khổ của những người tị nạn rải rác trên khắp thế giới, cứu trợ những người di cư và gia đình họ" (MV 54). 3. Trách nhiệm và tham gia: Tùy theo vị trí và vai trò của mình, mỗi người cần phải tham gia vào việc phục vụ và phát triển công ích. Sự tham gia nầy được thể hiện trước hết bằng việc chu toàn trách nhiệm cá nhân trong xã hội. Đồng thời người công dân cũng phải góp phần vào những công việc chung. "Phải ca tụng đường lối của những quốc gia đang để cho càng đông công dân càng tốt, được tham gia việc nước trong sự tự do đích thực" (MV 31). Sự tham gia với tinh thần trách nhiệm như thế chỉ có được trên nền tảng giáo dục và văn hóa. "Phải tổ chức việc giáo dục những người trẻ thuộc bất cứ thành phần nào trong xã hội, làm sao để đào tạo được những người nam và người nữ không những tài giỏi và văn hóa, mà còn có tâm hồn cao thượng" (MV 31). Đồng thời "phải trau dồi nơi chính mình những đức tính luân lý và xã hội, đồng thời đem những đức tính ấy gieo rắc ngoài xã hội. Như vậy với sự trợ giúp cần thiết của ơn thánh Chúa, sẽ có những con người mới thực sự và là những người kiến tạo nhân loại mới" (MV 30). III. Công bằng xã hội. Gắn liền với công ích và việc thực thi quyền bính là đòi hỏi công bằng xã hội. Đòi hỏi nầy chỉ được thực hiện nhờ tôn trọng con người, xây dựng sự bình đẳng và tình liên đới nhân loại. 1. Tôn trọng con người: Công bằng xã hội chỉ có được nhờ sự tôn trọng phẩm giá cao cả của con người. Việc tôn trọng phẩm giá được cụ thể hóa qua việc tôn trọng những quyền căn bản của con người. Đây chính là nền tảng cho sự hợp pháp về mặt luân lý của mọi quyền bính. Nếu không có sự tôn trọng nầy, quyền bính chỉ dựa vào bạo lực mà cai trị, và như thế làm xói mòn nền tảng hợp pháp của quyền bính về mặt luân lý. Giáo hội nhấn mạnh rằng "Mỗi người đều phải coi người đồng loại, không trừ một ai, như cái tôi thứ hai của mình... phải trở nên người lân cận của bất cứ ai và tích cực giúp đỡ họ khi họ đến với mình" (MV 27). Đòi hỏi nầy càng khẩn thiết hơn khi người lân cận đó là những người nghèo khổ, bị bỏ rơi vì "Điều gì các ngươi làm cho một trong những người hèn mọn, là làm cho chính Ta" (Mt 25,40). Hơn thế nữa, giáo lý của Chúa Kitô còn nới rộng giới răn yêu thương đến mức "yêu cả kẻ thù nghịch mình, làm ơn cho kẻ ghét mình, cầu nguyện cho kẻ bắt bớ và vu oan cho mình" (Mt 5,43-44). Vì thế, người Kitô hữu ghét sự ác nhưng không ghét bỏ người làm điều ác; trái lại vẫn yêu thương, kính trọng và cầu nguyện cho họ. 2. Bình đẳng và khác biệt: Công bằng xã hội cũng đòi hỏi phải nhìn nhận sự bình đẳng giữa mọi người, cho dầu có những khác biệt. Mọi người đều bình đẳng với nhau vì có chung một nguồn gốc là Thiên Chúa, chung một bản tính nhân loại và chung một cùng đích là hạnh phúc Nước Trời. Trong thực tế, con người có những khác biệt nhau về tuổi tác, năng lực, trí tuệ và tinh thần. Nói theo ngôn ngữ Tin Mừng, khi bước vào cuộc đời nầy, những nén bạc được giao phó không đồng đều. (x.Mt 25,14-30). Nhưng Chúa quan phòng đã muốn như thế để dạy con người bài học về liên đới và chia sẻ: mỗi chúng ta cần đón nhận từ người khác và cũng cần chia sẻ cho người khác; nhờ đó cuộc sống chung trở thành phong phú hơn. Chính vì thế, "sự chênh lệch quá đáng về kinh tế và xã hội giữa những thành phần, hay những dân tộc trong cùng một gia đình nhân loại, thực là những gương xấu, và đi ngược với công bằng xã hội, lẽ phải, nhân phẩm và nền hòa bình xã hội cũng như quốc tế" (MV 29). 3. Tình liên đới: Liên đới là đòi hỏi trực tiếp của tình huynh đệ nhân loại và Kitô giáo. Đối với người Kitô hữu, tình liên đới ấy bắt nguồn sâu xa từ chính Chúa Kitô, Đấng đã liên đới với ta trong thân phận tội lỗi; nhờ đó ta được chia sẻ sự sống với Ngài. Và như Đức Piô XII đã nói, trong suốt chiều dài lịch sử Hội Thánh, tình liên đới ấy đã thúc đẩy bao nhiêu Kitô hữu hy sinh, hiến dâng cuộc đời nhằm mang lại cho người khác cuộc sống xứng danh là con người và người Kitô hữu. Trong sinh hoạt xã hội, tình liên đới được biểu lộ qua việc phân phối của cải và công việc cho đồng đều. Tình liên đới cũng giúp cho con người giải quyết những vấn đề kinh tế xã hội trong tinh thần hòa giải. Noi gương Chúa Kitô, người Kitô hữu nỗ lực thể hiện tình liên đới trong sự hiệp thông đức tin, cũng như trong sự chia sẻ của cải vật chất hằng ngày, vì "Trước hết hãy tìm kiếm nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ khác, Người sẽ thêm cho" (Mt 6,33). Hơn ai hết, người Kitô hữu hôm nay phải ghi nhớ lời nhắn nhủ của Hội Thánh "Hoàn cảnh biến đổi sâu rộng và nhanh chóng đòi hỏi cấp bách đừng ai chủ trương một thứ luân lý duy cá nhân, mà không lưu tâm hoặc không màng chi tới diễn tiến thời cuộc" (MV 30). Đức tin không thể chỉ bó hẹp trong một số bổn phận đạo đức cá nhân, nhưng còn cần được thể hiện trong sinh hoạt xã hội; nhờ đó Tin Mừng Chúa Kitô được thấm nhập vào mọi thực tại của đời sống con người. Bài 45 LUẬT LUÂN LÝ (x. SGLC từ 1949 đến 2051) "Đức Giêsu trả lời: Điều răn đứng hàng đầu là: Nghe đây, hỡi Ít-ra-en, Đức Chúa, Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất. Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Chúa của ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết tâm trí và hết sức lực ngươi. Điều răn thứ hai là: Ngươi phải yêu mến người thân cận như chính mình. Chẳng có điều răn nào khác quan trọng hơn các điều răn đó". (Mc 12, 29-31) "Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em" (Ga 13, 34) I. Lề luật luân lý là gì? Quốc gia nào cũng có luật pháp riêng, có truyền thống riêng, và ngày nay luật pháp quốc tế cũng được đề cao. Vậy luật luân lý để làm gì? Theo Kinh Thánh, lề luật luân lý là cách thức giáo huấn, là phương pháp sư phạm Thiên Chúa sử dụng để hướng dẫn con người tránh xa điều ác, ngõ hầu được tham dự vào đời sống vĩnh cửu của Thiên Chúa hứa ban. Vì thế lề luật luân lý là những mệnh lệnh vừa có tính cách dịu dàng trong lời hứa, vừa có tính cách nghiêm khắc theo lệnh truyền. Lề luật luân lý cũng được phát triển với nhiều hình thức khác nhau như luật tự nhiên, luật mặc khải. Lề luật luân lý để giúp con người tiến tới hoàn thiện, nhưng cùng đích của lề luật luân lý là chính Chúa Kitô: "Bởi vì cùng đích của lề luật là Chúa Kitô để mọi tín hữu được ơn công chính hóa" (Rm 10,4). II. Luật tự nhiên. Thiên Chúa luôn luôn tôn trọng quyền con người, nên Người ban cho mỗi người quyền làm chủ và quản lý mọi hành vi của mình để đạt tới chân lý và sự Thánh Thiện. Vì thế luật tự nhiên là qui luật Thiên Chúa ban cho mỗi người để họ dùng lý trí mà phân biệt những gì là thiện ác, là chân thật, là dối trá. Luật này đã được Thiên Chúa ghi tạc trong lòng mỗi người như Đức Lêô XIII đã xác quyết trong thông điệp Libertas Praestantissimum: "Luật tự nhiên đã được ghi chép trong tâm hồn mỗi người và mọi người, vì nó là lý trí của con người, truyền làm điều thiện và cấm phạt tội..." Luật tự nhiên chính là tiếng nói, là ánh sáng Thiên Chúa đã phú bẩm cho con người để sống xứng đáng là người con của Thiên Chúa: "Luật tự nhiên không gì khác ngoài ánh sáng trí tuệ được Thiên Chúa đặt trong ta. Nhờ luật tự nhiên, chúng ta biết những gì phải làm và những gì phải tránh. Ánh sáng này, tức luật này, đã được Thiên Chúa ban khi sáng tạo nên con người" (Th. Tôma). Hiện diện trong trái tim vá lý trí của mỗi người, luật tự nhiên luôn mang tính phổ quát bất biến và trường tồn: "Chắc chắn có một luật đích thực, đó là lý trí ngay thẳng, luật này phù hợp với bản tính con người và trải rộng với tất cả mọi người. Nó bất biến và vĩnh cửu: những mệnh lệnh của nó gọi ta thi hành những bổn phận, những cấm đoán của nó bắt ta tránh xa điều sai lỗi..." (Cicero). Tóm lại, luật tự nhiên là tác phẩm tuyệt vời của Đấng Tạo Hóa, nên nó luôn là nền tảng để xây dựng các luật luân lý và dân luật. III. Luật mặc khải. 1. Luật cũ: Thiên Chúa là Đấng sáng tạo và cứu độ, nên Ngài đã chọn Ít-ra-en là dân riêng vã đã mặc khải luật của Ngài để chuẩn bị cho Chúa Kitô giáng trần. Luật này cũng gọi là luật Môsê. Luật Môsê hay là luật cũ phát biểu nhiều chân lý và lý trí tự nhiên có thể hiểu được. Nội dung của luật cũ được gồm tóm trong mười giới răn. Các giới răn cấm những gì nghịch lại tình yêu Thiên Chúa và tha nhân, và dạy những gì là cốt lõi cho tình yêu Thiên Chúa và tha nhân. Vì thế luật cũ là tình trạng sơ khởi của luật mặc khải và là bước đường chuẩn bị cho luật mới. 2. Luật mới: Luật mới tức là luật Phúc Âm, luật toàn hảo, luật mới chính là tác phẩm của Chúa Kitô và cũng là ân sủng của Chúa Thánh Thần. Luật mới này được trình bày đặc biệt qua bài giảng trên núi, cũng gọi là Tám mối Phúc Thật: "Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó vì họ sẽ được vào Nước Trời... (Mt 5, 3-12). Luật mới hoàn thành và đưa luật cũ tới chỗ hoàn hảo: "Anh em đừng tưởng Thầy đến để bãi bỏ luật Môsê, hoặc giáo huấn của các ngôn sứ, Thầy đến không phải là bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn" (Mt 5,17). Luật mới là luật của tình yêu, của ân sủng và tự do: "Đây là điều răn của Thầy: anh em hãy thương yêu nhau như Thầy đã yêu thương anh em" (Ga 15,12). Và "Thầy ban cho anh em một điều răn mới...." (Ga 23,34). Ngoài những giới răn ra, luật mới còn gồm những lời khuyên của Phúc Âm. Các lời khuyên của Phúc Âm cho thấy sự tràn đầy sống động của Đức Ái, không bao giờ được thỏa mãn vì những gì mình đã thực hiện. Nên lời khuyên Phúc Âm thúc đẩy con người đến bậc hoàn hảo hơn. Càng có nhiều người sống lời khuyên Phúc Âm, Hội Thánh càng tỏa ra sự thánh thiện: "Sự thánh thiện của Hội Thánh được đặc biệt duy trì bởi các lời khuyên khá nhiều mà Chúa đã đề ra cho các môn đệ giữ trong Phúc Âm" (LG 42). Bài 46 ÂN SỦNG VÀ CÔNG CHÍNH HÓA (x. SGLC từ 1987 đến 2029) "Nhưng ngày nay, Thiên Chúa cho thấy cách Người làm cho người ta nên công chính mà không cần đến luật Môsê. Điều này sách luật và các ngôn sứ làm chứng. Quả thế, Thiên Chúa làm cho người ta nên công chính, nếu họ tin vào Đức Giêsu Kitô. Tất cả những ai tin đều được như thế, bất kể là người Do Thái hay người ngoại. Thật vậy, mọi người đã phạm tội và bị tước mất quyền vinh quang Thiên Chúa, nhưng họ được trở nên công chính do ân huệ Thiên Chúa ban nhưng không, nhờ công trình cứu chuộc thực hiện trong Đức Kitô Giêsu. Thiên Chúa đã định cho Đức Kitô Giêsu phải đổ máu mình ra làm hy lễ đem lại ơn tha tội cho những ai tin. Như vậy Thiên Chúa cho thấy Người là Đấng công chính. Trước kia trong thời Thiên Chúa nhẫn nại, Người đã bỏ qua các tội lỗi người ta phạm. Nhưng bây giờ Người muốn cho thấy rằng Người là Đấng Công Chính, nghĩa là Người vừa công chính, vừa làm cho kẻ sống nhờ lòng tin vào Đức Giêsu được nên công chính" (Rm 3, 21-26). I. Ý nghĩa và đặc điểm Ơn Công Chính hóa. Khát vọng sâu xa của mỗi người Kitô hữu là được ơn công chính hóa, nghĩa là nhờ ân sủng của Chúa Thánh Thần, ta được sạch mọi tội lỗi, và được ban sự sống của Thiên Chúa, nhờ tin vào Đức Giêsu Kitô và nhờ phép Thánh Tẩy: "Quả thế, Thiên Chúa làm cho người ta nên công chính, nếu họ tin vào Đức Giêsu Kitô... " (Rm 3,22). Chính nhờ ân sủng Chúa Thánh Thần mà mỗi người được dự phần vào cuộc khổ nạn của Chúa Kitô khi biết chết cho tội lỗi nhờ bí tích Thánh Tẩy, để được gia nhập vào thân thể mầu nhiệm của Đức Kitô là Hội Thánh: "Nhờ Chúa Thánh Thần chúng ta được dự phần với Thiên Chúa. Nhờ sự dự phần của Thánh Thần, chúng ta được dự phần vào bản tính thần linh... (Thánh Atanaxilô). Nhờ ân sủng của Chúa Thánh Thần, tiên vàn ta được ơn hoán cải, chính là điều Đức Giêsu đã rao giảng: "Các ngươi hãy hoán cải, vì Nước Thiên Chúa đã gần rồi" (Mt 4,17). Khi đã được ơn hoán cải, con người xa lìa tội lỗi, trở về với Thiên Chúa, nhờ đó được ơn tha thứ và ơn công chính. "Như vậy sự công chính hóa bao gồm ơn tha thứ các tội, ơn thánh hóa và sự đổi mới con người nội tâm" (Công đồng Trentô). Như thế nhờ cuộc khổ nạn của Đức Kitô và nhờ phép Rửa của Ngài, nhờ ân sủng của Thánh Thần, ta được công chính, nghĩa là được ơn tha tội, được tràn đầy lòng tin cậy mến Thiên Chúa, và được dự vào sự sống thần linh của Thiên Chúa Ba Ngôi. Do đó, ơn công chính là công cuộc tuyệt hảo của tình yêu Thiên Chúa đối với con người, như lời Thánh Âu Tinh (Ev Yn 72,3): "Sự công chính hóa kẻ vô đạo là công cuộc lớn lao hơn việc tạo thành trời đất" bởi vì "Trời và đất sẽ qua đi, còn ơn cứu độ và ơn công chính hóa các kẻ được chọn sẽ tồn tại mãi mãi". II. Ân sủng và đón nhận Ân sủng, Đặc sủng. Ơn công chính hóa là công cuộc tuyệt hảo của tình yêu Thiên Chúa đối với kẻ có tội. Nhưng công chính hóa là ân sủng của Thiên Chúa. Vậy ân sủng là ân huệ, là sự cứu giúp nhưng không Chúa Cha trao ban để con người đáp lại tiếng mời gọi của Ngài là trở thành người con của Thiên Chúa: "... Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa..." (Ga 1, 12-18), trở thành nghĩa tử của Thiên Chúa: "Thần khí làm cho anh em nên nghĩa tử..." (Rm 8, 14-17), được dự phần bản tính Thần Linh: "Nhờ vinh quang và sức mạnh ấy, Thiên Chúa đã ban tặng chúng ta những gì rất quí báu và trọng đại Người đã hứa, để nhờ đó, anh em được thông phần bản tính Thiên Chúa..." (2Pr 1, 3-4), và được sự sống vĩnh cửu: "...Thật vậy Cha đã ban cho Người quyền trên mọi phàm nhân, là để Người ban sự sống đời đời cho tất cả những ai Cha đã ban cho Người. Mà sự sống đời đời chính là nhận biết Cha, Đấng duy nhất là Thiên Chúa thật, và nhận biết Đấng Cha đã sai đến là Đức Giêsu Kitô" (Ga 17, 2-3). Như vậy ân sủng là hồng ân nhưng không của Thiên Chúa ban cho ta, có tính thường xuyên, ổn định và siêu nhiên, để giúp ta sống thân mật với Thiên Chúa, và hành động theo ý Ngài. Người ta cũng phân biệt Thường Sủng giúp ta sống và hành động theo tiếng gọi của Thiên Chúa, và Hiện Sủng để trợ giúp công cuộc thánh hóa. Ân sủng được ban cho ta không những để thánh hóa bản thân, mà còn giúp ta cộng tác vào việc thánh hóa người khác, và làm tăng trưởng thân thể Chúa Kitô là Hội Thánh. Đó là những ân sủng đặc biệt mà ta gọi là Đặc Sủng. Đặc sủng là ân huệ, hồng ân nhưng không đặc biệt của Chúa Thánh Thần, để xây dựng Hội Thánh vì đức bác ái. Mỗi Kitô hữu phải ý thức hồng ân Chúa ban là món quà quí giá nhất, nên tỉnh thức mau mắn đón nhận và rộng mở tâm hồn để cộng tác vào ơn của Thiên Chúa. III. Công trạng. Mỗi khi làm được một việc lành cho tha nhân hoặc cho cộng đoàn... thường người ta coi đó là một công trạng, hay công nghiệp, hoặc công lao với Thiên Chúa. Đúng nghĩa mà nói, con người không có công lao gì với Thiên Chúa, bởi vì Ngài là Đấng sáng tạo, còn con người là thụ tạo. Hơn nữa những gì con người có đều là hồng ân Thiên Chúa ban. Nhưng nhờ ân sủng của Chúa Thánh Thần thúc đẩy, ta trở thành nghĩa tử của Thiên Chúa, ta có thể lập công để xứng đáng nhận cho mình và cho những người khác các ân huệ có ích cho ta đạt tới sự sống vĩnh cửu, cũng như để lãnh nhận được những ơn ích trần gian cần thiết như của cải, sức khỏe, tình bạn... Các ân sủng này, các lợi ích này là đối tượng của lời cầu nguyện Kitô giáo. Nhưng chính Đức Ái của Chúa Kitô ở trong ta là nguồn mạch tất cả các công lao của ta trước mặt Thiên Chúa. Khi kết hợp với Chúa Kitô bằng tình yêu tích cực, mọi hành vi của ta đều có công trước mặt Chúa và trước mặt người ta. Tóm lại, các vị Thánh luôn ý thức sâu xa rằng công lao của các Ngài chỉ là ân sủng của Thiên Chúa. IV. Mọi người được kêu gọi nên Thánh. Hết mọi người đều được mời gọi nên thánh như Đức Giêsu đã mời gọi: "Anh em hãy trở nên hoàn thiện như Cha anh em ở trên trời là Đấng hoàn thiện" (Mt 5,48). Muốn được thế, "các tín hữu phải nỗ lực theo mức hồng ân đã nhận từ Chúa Kitô để đạt được sự toàn thiện, để (....) trong khi chu toàn thánh ý Chúa Cha trong mọi sự, họ hiến thân với hết tâm hồn cho vinh quang Thiên Chúa và cho việc phục vụ tha nhân... " (LG 40). Lời mời gọi nên Thánh đòi hỏi người Kitô hữu phải cố gắng trong suốt cuộc đời vì "sự toàn thiện Kitô giáo chỉ có một giới hạn, giới hạn đó không có một giới hạn nào hết" (Thánh Gregôriô thành Nys), đồng thời: "nếu ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo" (Mt 16,25). Bài 47 HỘI THÁNH LÀ MẸ VÀ THẦY (x. SGLC từ 2030 đến 2051) "Tất cả chúng ta qua Chúa Kitô, được mời vào, mà nên thánh trong Hội Thánh... khi Ngài phục sinh từ cõi chết (Rm 6,9). Ngài đã gửi Thánh Thần của sự sống đến với môn đồ để thiết lập thân thể Ngài là Hội Thánh, như một bí tích cứu rỗi ở khắp nơi... " (LG 48) I. Huấn quyền và đời sống Luân lý - Thi hành Huấn quyền. Nhờ Hội Thánh, người Kitô hữu nhận được các giáo huấn của "luật Chúa Kitô" (GL 6,2), muôn vàn ân sủng các Bí tích, những gương sáng thánh thiện... bởi vì Hội Thánh là thân thể mầu nhiệm của Chúa Kitô, là Giêrusalem trên trời, là Mẹ của chúng ta (x. Gl 4, 2-6). Hội Thánh được coi là "cột trụ và điểm tựa của chân lý" (1Tm 3,15), vì Hội Thánh "đã nhận được từ các tông đồ lệnh truyền long trọng của Chúa Kitô là phải giảng chân lý vì ơn cứu độ" (LG 17). Vì thế, chẳng những Hội Thánh giảng dạy giáo lý từ "mười giới răn" cùng với "Kinh Tin Kính" và "Kinh Lạy Cha" mà Hội Thánh còn có quyền loan báo những nguyên tắc luân lý liên quan đến đời sống con người và đưa ra những phán quyết. Quyền bính đó được Chúa Kitô trao cho các tông đồ, và các Ngài lại trao cho những người kế vị "Đức Giáo Hoàng Rôma, vì là đại diện Chúa Kitô và là chủ chăn của toàn thể Hội Thánh, nên đối với Hội Thánh, có một quyền bính trọn vẹn, tối cao và phổ quát... Giám mục đoàn kế nghiệp tông đồ đoàn trong việc giáo huấn và chăn dắt đoàn chiên, hơn nữa làm cho tông đồ được trường tồn. Giám mục đoàn hợp nhất với Đức Giáo Hoàng Rôma là thủ lãnh... cũng có quyền bính tối cao và trọn vẹn... (LG 22). "Vì thế Thánh Công Đồng dạy rằng, các Giám mục theo như huấn lệnh của Chúa, kế nghiệp các tông đồ làm chủ chăn trong Hội Thánh, ai nghe lời các Ngài là nghe lời Chúa Kitô, ai ruồng rẫy các Ngài là ruồng rẫy Chúa Kitô và Đấng đã sai Người đến" (LG 20). Vì thế, để tỏ lòng tôn kính và yêu mến Hội Thánh là Mẹ và Thầy, mọi thành phần dân Chúa: các linh mục, các nhà thần học, giáo dân: Hết lòng vâng phục giáo huấn của Hội Thánh qua Đức Giáo Hoàng và các Giám mục. Tích cực đóng góp vào nền luân lý của Hội Thánh được thích nghi trong mọi hoàn cảnh và mọi thời đại. II. Các Điều răn Hội thánh. Ngoài những lề luật luân lý dựa trên Kinh Thánh, Thánh Truyền và luật tự nhiên mà Thiên Chúa đã trao cho Hội Thánh quản lý, Hội Thánh cũng có những điều răn gắn liền với sinh hoạt phụng vụ để giúp tín hữu được cái tối thiểu trong việc mến Chúa yêu người. Các điều răn đó là: Xem lễ ngày Chúa Nhật cùng các ngày Lễ buộc. Xưng tội trong một năm ít là một lần. Chịu Mình Thánh Đức Giêsu trong Mùa Phục Sinh. Thánh hóa ngày Chúa nhật và các ngày Lễ buộc. Giữ chay và kiêng thịt như Hội Thánh dạy. III. Đời sống Luân lý với việc Truyền giáo. Mỗi thành viên của Hội Thánh là chi thể của Thân Mình mầu nhiệm, có Chúa Kitô là Đầu, và bản chất của Hội Thánh là rao giảng Tin Mừng, vì Đức Giêsu đã truyền: "Chúng con hãy đi giảng dạy tất cả các dân tộc, rửa tội cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, hãy dạy họ tuân giữ những điều Thầy truyền cho các con..." (Mt 28, 19-20). Thánh Phaolô ý thức điều đó và đã thốt lên: "Khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng" (1Cr 9,16). "Vì thế, môn đệ của Chúa Kitô hằng bền lòng cầu nguyện và ca tụng Thiên Chúa" (Cv 2, 42-47), "Phải tự hiến như những hy tế sống động, thánh thiện làm hài lòng Thiên Chúa" (Rm 12,1), (LG 10) và "Ai không đáp ứng lại với ân huệ đó bằng tư tưởng, ngôn từ và hành động, họ sẽ không được cứu rỗi mà còn bị lên án nặng nề" (Lc 12,48); (LG 14). Như vậy, mỗi Kitô hữu đều mang trách nhiệm góp phần xây dựng Hội Thánh bằng đời sống kiên trì thực thi những lệnh truyền của Chúa và Hội Thánh, bằng đời sống thánh thiện, để Hội Thánh lớn lên, tăng trưởng và phát triển. Bài 48 Điều răn I : THỜ PHƯỢNG VÀ KÍNH MẾN THIÊN CHÚA (x. SGLC từ 2083 đến 2141) "Ta là Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, đã đưa ngươi ra khỏi đất Ai Cập, khỏi cảnh nô lệ. Ngươi không được có thần nào khác đối nghịch với Ta. ngươi không được tạc tượng, vẽ hình bất cứ vật gì ở trên trời cao, cũng như dưới đất thấp, hoặc ở trong nước phía dưới mặt đất, để mà thờ. Ngươi không được phủ phục trước những thứ đó mà phụng thờ" (Xh 20, 2-5) Đức Giêsu đã tóm lại các bổn phận của con người đối với Thiên Chúa "Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn hết trí khôn ngươi" (Mt 22,37). Trong "mười lời" (mười điều răn) Thiên Chúa ban cho dân Người, thì ba lời đầu trực tiếp nhắm tới bổn phận đối với Thiên Chúa, và bảy lời sau nhắm tới bổn phận con người đối với nhau theo ý muốn Thiên Chúa. Điều răn thứ nhất nói về bổn phận tôn thờ Thiên Chúa trên hết mọi sự. I. Phải tôn thờ một mình Thiên Chúa. Thiên Chúa đã mặc khải quyền năng và lòng nhân hậu cho dân được chọn, khi thực hiện công cuộc giải phóng dân: "Ta đã đưa các ngươi ra khỏi đất Ai Cập; khỏi cảnh nô lệ". Vì thế Israen thuộc về Chúa, là dân của Chúa nên phải tôn thờ một mình Người "Chính Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em là Đấng anh em phải kính sợ; chính Người là Đấng anh em phải phụng thờ... anh em không được theo những thần khác" (Đnl 6, 13-14). Khi Thiên Chúa mặc khải vinh quang của Người cho dân Ít-ra-en, Người cũng mặc khải về chính con người và ơn gọi của họ, để họ phải cư xử thế nào cho phù hợp với Thiên Chúa, Đấng đã tạo dựng con người theo hình ảnh và giống như Người. Con người phải thờ phượng Thiên Chúa, và chỉ thờ phượng một mình Người mới phải đạo: "Ngươi phải thờ lạy Đức Chúa, là Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Người mà thôi" (Lc 4,8). Thờ phượng Thiên Chúa là nhìn nhận sự hư vô bất lực của mình, nên phải lệ thuộc hoàn toàn vào Thiên Chúa là Đấng sáng tạo và cứu chuộc duy nhất. Thờ phượng Thiên Chúa là làm như Đức Maria: ca tụng tôn vinh Thiên Chúa, chấp nhận thân phận hèn mọn với lòng tri ân và cảm tạ xưng tụng những kÿ công tuyệt vời của Chúa (x. Kinh Magnificat; Lc 1, 46-55). Thờ phượng Thiên Chúa như vậy là thể hiện lòng tin cậy mến đối với Thiên Chúa. 1. Đức tin: Muốn sống cho phải đạo, phải tin vào Thiên Chúa, yêu mến và vâng phục Người. Những lệch lạc và sai lầm về luân lý bắt nguồn từ chỗ không tin Thiên Chúa hoặc từ chối tin vào Người. Cho nên điều răn thứ nhất đòi hỏi ta phải giữ gìn, nuôi dưỡng đức tin và xa tránh những gì nguy hiểm cho đức tin. Có những tội nghịch đức tin như từ chối hoặc nghi ngờ tin vào những điều Thiên Chúa đã mặc khải, và Hội Thánh đã giảng dạy. Khi chối bỏ hay nghi ngờ một chân lý phải tin là rối đạo. Bỏ đạo là hoàn toàn chối bỏ niềm tin Kitô giáo. Còn khi từ chối không vâng phục Đức Giáo Hoàng hay từ chối hiệp thông với Hội Thánh thì gọi là ly giáo. 2. Đức Cậy: Trông cậy là tin tưởng và mong chờ phúc lành của Thiên Chúa ở đời này, và được hạnh phúc với Người ở đời sau. Hai tội nghịch với đức trông cậy là tuyệt vọng và kiêu ngạo. Khi nghi ngờ và không còn tin tưởng vào lòng nhân từ và trung thành của Thiên Chúa, con người không còn mong đợi ơn tha thứ và ơn cứu độ của Thiên Chúa nữa. Đó là tội tuyệt vọng. Còn khi con người quá cậy tài sức của mình mà không cần ơn Chúa, hoặc khi quá cậy trông vào lòng nhân từ và quyền năng Thiên Chúa, mà không cần cộng tác bằng việc ăn năn hối cải, để được hưởng ơn cứu độ, đó là tội tự cao tự đại. 3. Đức mến: Tin rằng Thiên Chúa yêu thương mình, con người phải yêu mến Thiên Chúa chân thành và hết mình: "Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta là Đức Chúa duy nhất. Hãy yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, hết lòng, hết dạ, hết sức anh em" (Đnl 6, 4-5). Điều răn thứ nhất dạy ta phải yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự, mọi loài, và yêu mến chỉ vì chính Người mà thôi. Đó là đức mến Kitô giáo. Người ta có thể phạm tội nghịch đức mến: - Dửng dưng là bỏ qua hoặc từ chối không công nhận tình yêu Thiên Chúa. - Vô ơn là không đáp lại tình yêu Thiên Chúa. - Thờ ơ hay lười biếng trong các bổn phận đối với Chúa. - Thù ghét, chống lại và nguyền rủa Thiên Chúa. 4. Những hình thức khác: Cầu Nguyện. Khi cầu nguyện, người Kitô hữu thể hiện lòng tin cậy mến mà thờ phượng Thiên Chúa. Cầu nguyện tức là thờ lạy, chúc tụng, cảm tạ và xin ơn. Cần phải cầu nguyện để có thể vâng giữ các điều Chúa truyền, và thực hành những diều Chúa dạy."Phải cầu nguyện luôn, không được nản chí" (Lc 18,1). Như thế, cầu nguyện là thái độ cơ bản nói lên đức thờ phượng đối với Thiên Chúa. Lễ Hy Sinh: Thật là hợp lý khi chúng ta dâng lê

LỚP GIÁO LÝ HÔN NHÂN Và GIA ĐÌNH khóa 1 Năm 2024

Sau 3 tháng học hỏi và thực hành sống đạo, lúc 17g30 thứ bảy 16/03/2024, tại thánh đường giáo xứ Tân Việt, 26 anh chị em được diễm phúc trở nên chi thể mới của Đức Kitô, là con của Hội Thánh qua các bí tích khai tâm do linh mục chánh xứ Đaminh …

Sau 3 tháng học hỏi giáo lý và thực hành sống đạo, lúc 17g30 thứ bảy 16/09/2023, tại thánh đường giáo xứ Tân Việt, 16 anh chị em được diễm phúc trở nên chi thể mới của Đức Kitô, là con của Hội Thánh qua các Bí tích khai tâm do Linh mục chánh xứ …

“ Hôm nay cộng đoàn giáo xứ chúng ta được mời gọi để cầu nguyện cho 14 anh chị em dự tòng đón nhận Bí Tich Khai Tâm Kitô Giáo, trờ thành con cái của Thiên Chúa như chính Chúa Giêsu đã làm cho Lazaro chết 4 ngày được sống lại”. Đó là lời nhắn …

LỚP GIÁO LÝ DỰ TÒNG KHOÁ 1/2023

Vào lúc 17g30 ngày 26/11/2022 , Lm chánh xứ Đaminh đã chủ tế Thánh lễ bế giảng lớp Giáo lý HN khóa 2/2022 tại Thánh đường giáo xứ Tân Viêt. Hiệp dâng Thánh lễ có 42 học viên, quý giảng viên, quý chức  và toàn thể cộng đoàn dân Chúa. Trong tâm tình hân hoan, …

“ Thánh lễ hôm nay là một Thánh lễ đặc biệt vì hôm nay có 17 anh chị em lãnh nhận các Bí Tích khai tâm Kitô giáo, 7 anh chị em lãnh nhận Bí tích Thêm sức và 4 đôi họp thức hóa hôn nhân”… Đó là lời chia sẻ của Lm Chánh xứ …

Thân mời các bạn trẻ và những ai muốn tìm hiểu đức tin để gia nhập Giáo Hội Công Giáo, xin ghi danh tham dự Lớp Giáo Lý Dự Tòng Khoá II / 2020 tại Giáo Xứ Tân Việt số 241 Bis Trường Chinh, Phường 12, Quận Tân Bình, TP. Hồ Chí Minh.